Khi
trước làm việc dưới hầm mỏ, Stephenson đã từng quen thuộc với các loại
máy hơi nước của James Watt, rồi theo các ý tưởng của Murdock và
Trevithick, Stephenson chế tạo một đầu tầu kéo được 90 tấn trên quãng
đường 85 dậm. Stephenson chế tạo tiếp chiếc xe thứ hai rồi chiếc thứ ba,
nặng 4 tấn rưỡi, bánh xe có đường kính 1.42 mét. Chiếc thứ ba này có
tên là Rocket và được cho chạy vào năm 1830, mở đầu ngành hỏa xa. Trong
những lần thử ban đầu, chiếc Rocket chở được 36 hành khách và chạy với
tốc độ 30 dậm một giờ.
Đường ray xe lửa đầu tiên cũng được George Stephenson xây dựng, dài 32 cây số
(20 dậm), bắt đầu nối hai thị xã Stockton và Darlington vào năm 1825 và
trên tuyến đường này, các xe lửa dùng hơi nước đã chạy theo một lịch
trình đều đặn. Một tuyến đường xe lửa thứ hai được Stephenson thiết lập
vào năm 1830, dài 48 cây số (32 dậm) nối thành phố Liverpool với thành
phố Manchester với các đoàn xe lửa dùng hơi nước chở hành khách chạy đều
đặn. Stephenson còn đề nghị tất cả đường rầy của quốc gia phải theo
cùng một tiêu chuẩn và kích tấc này là 4 feet 8.5 inches (1.44 mét)
tương đương với chiều dài của trục xe ngựa thời đó. Về sau các nước
thuộc châu Âu và Hoa Kỳ đều dùng tiêu chuẩn này.
Nhờ tư tưởng của các nhà phát minh người Anh và cũng
nhờ những đầu tầu chế tạo tại nước Anh mà Hoa Kỳ là nước thực hiện có
kết quả ngành hỏa xa. Đại Tá John Stevens xin được đặc quyền tại New
Jersey về khai thác đường xe lửa. Vào năm 1825, Stevens chế tạo một đầu
tầu và cho tầu chạy một vòng nhỏ tại Hoboken, New Jersey. Stevens đã
nghĩ ra nguyên tắc dùng bánh xe có răng của đầu tầu ăn khớp vào các
đường răng đặt giữa đường tầu chạy. Hai năm sau, công ty Delaware and
Hudson Canal của tiểu bang Pennsylvania quyết định thiết lập một tuyến
xe lửa và công ty đã nhập cảng hai đầu tầu do Stephenson chế tạo. Một
trong hai đầu tầu này có tên là Stourbridge Lion, đây là chiếc xe lửa
đầu tiên được dùng có tính cách thương mại tại Hoa Kỳ.
Năm 1831, chiếc đầu tầu John Bull được đem vào Hoa Kỳ để chạy tuyến đường xe lửa Camden và Amboy rồi sự nhập cảng các đầu tầu của nước Anh bị chấm dứt vì loại xe này quá nặng
nề đối với những con đường xe lửa mỏng manh của Hoa Kỳ. Vì thế nhiều
loại đầu tầu mới được chế tạo tại chỗ để thích hợp hơn. Từ năm 1830,
Peter Cooper chế tạo chiếc đầu tầu Tom Thumb dùng cho đường xe lửa
Baltimore - Ohio và xưởng đúc West Point cho ra đời chiếc xe Best Friend
để xử dụng vào năm 1831 tại tiểu bang South Carolina, trên tuyến đường
giữa Charleston và Hamburg.
Các
nồi súp-de khi thì được đặt thẳng đứng, lúc được sửa đổi thành nằm
ngang. Chiếc đầu tầu xe lửa lịch sử De Witt Clinton của công ty hỏa xa
Mohawk and Hudson do xưởng đúc West Point chế tạo có nồi súp-de nằm
ngang. Vào tháng 8 năm 1831, chiếc đầu tầu lịch sử kể trên đã kéo một
đoàn tầu không mui chạy quãng đường dài 17 dậm từ Albany tới Schenectady
trong 1 giờ 45 phút và đã đạt được vận tốc tối đa là 30 dậm một giờ.
Lúc trở về đoàn tầu đã chạy trong khoảng một giờ. Xe lửa De Witt Clinton
đã được dùng trong 14 năm rồi mới chịu nhường chỗ cho các con tầu tân
tiến hơn.
Nhờ khả năng chở nặng, xe lửa được phổ thông hóa và được nhiều người dùng tới.
Hoa Kỳ là nước giàu về nguyên liệu lại rộng rãi về đất đai, nên đã là
một nơi rất thích hợp cho các nhà tiền phong về ngành hỏa xa. Nhờ xe
lửa, người ta đã có thể chở nhiều nguyên liệu ra khỏi các vùng khai khẩn
về những cơ xưởng. Vì thế người Mỹ đã bỏ hàng triệu bạc vào việc thiết
lập ngành chuyên chở này. Sự phát triển xe lửa vào những năm giữa thế kỷ
19 đã là một mốc đánh dấu sự tiến bộ của một ngành kỹ nghệ mới. Các nhà
phát minh Hoa Kỳ nhờ thiên khiếu về máy móc, đã thêm vào các kiểu đầu
tầu xe lửa của châu Âu nhiều cải cách đáng kể. Chỉ trong vài chục năm,
đường xe lửa đã chạy dọc theo các vùng đất hoang vu thuộc miền thung
lũng sông Mississippi, qua các cánh đồng tới rặng núi Rockies và tới tận
miền bờ biển Thái Bình Dương.
Để có thể cung cấp đủ các đầu tầu theo nhu cầu đòi
hỏi, các xưởng đúc thép đặc biệt ra đời. Trong những ngày đầu, xưởng của
Mathew Baldwin đã đóng một vai trò quan trọng. Baldwin trước kia là một
người thợ kim hoàn nhưng đã bỏ nghề đó mà quay sang nghề mới. Baldwin
bắt đầu chế tạo chiếc đầu tầu xe lửa có tên là Old Ironsides vào năm
1832 theo kiểu chiếc John Bull. Đây là một đầu tầu nặng 8 tấn, có thể
kéo được 80 tấn hàng. Vì các con đường tại Hoa Kỳ thường dốc hơn và các
khúc quanh nhọn hơn tại nước Anh nên các nhà chế tạo phải suy tính sao
cho đầu tầu có đủ sức mạnh, lại dễ lái theo các đường cong. Tính chất
sau này đã được cải cách do kỹ sư Jervis của công ty hỏa xa Mohawk and
Hudson. Jervis cũng tăng số bánh xe của đầu tầu từ 4 lên tới 8 bánh.
Tại cơ xưởng Rogers Locomotive ở Paterson, New
Jersey, các đầu tầu được chế tạo với các xy lanh nằm bên ngoài khung
tầu. Chiếc đầu tầu chế tạo cho đường xe lửa New York, New Haven và
Harford đã trở nên mẫu mực trong nửa thế kỷ cho các đầu tầu khác tại Hoa
Kỳ. Chiếc đầu tầu này có 8 bánh, 11 xylanh dài 45 cm. Vì năng lực của
đầu tầu ngày một gia tăng, người ta phải nghĩ tới cách làm sao cho bánh
xe không trượt đi khi tầu chạy. Sự trượt này có thể tránh được nếu cho
sức mạnh dồn vào các bánh bẻ lái, vì thế các đầu tầu kéo toa chở hàng
được tăng số bánh bẻ lái. Về sau người ta tìm kiếm các phương pháp làm
tăng thêm sức mạnh của đầu tầu mà vẫn chỉ dùng cùng một số lượng than,
một thí dụ là chiếc đầu tầu khổng lồ Virginian có chiều dài 32.6 mét
nặng 450 tấn đủ sức kéo được 17,000 tấn.
Xe lửa chở hành khách.
Tới năm 1850, phần lớn các tuyền đường xe lửa được
xây dựng tại các tiểu bang nằm về phía đông của giòng sông Mississippi.
Đã có các mạng lưới đường xe lửa tỏa ra từ các thành phố lớn như Boston,
New York và Philadelphia, nối với các thành phố miền trung tây và miền
đông nam. Tại vùng hồ Erie, công ty xe lửa đã mở tuyến nối từ Piermont
tới Dunkirk vào năm 1851 rồi trong thập niên 1880, xe lửa đã chạy trên
các con đường nối từ Chicago tới vùng thung lũng sông Mississippi. Vào
năm 1857, cả hai thành phố Chicago và Saint Louis đều là các trung tâm
vận chuyển.
Năm 1850 Hạ Viện Hoa Kỳ bắt đầu dùng các vùng đất
liên bang cấp cho các công ty xây dựng đường xe lửa vì Hạ Viện cho rằng
các con đường này sẽ hấp dẫn các người định cư về cư ngụ tại những miền
đất Trung Tây và Miền Nam chưa được phát triển. Nhờ sự giúp đỡ về đất
đai này, một tuyến đường xe lửa đã nối thành phố Chicago với thành phố
Mobile, gần Vịnh Mexico thuộc tiểu bang Alabama. Trong thập niên 1860,
xe lửa vẫn tiếp tục phát triển và đã đóng một vai trò quan trọng trong
Cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ (1861/65) bằng cách di chuyển binh sĩ và đồ
tiếp liệu ra mặt trận.
Vào đầu thập niên 1860, chính quyền Hoa Kỳ quyết định phát triển hệ thống đường xe lửa băng qua lãnh thổ.
Con đường sắt được đề nghị chạy dọc theo vĩ tuyến 42, từ thành phố
Omaha thuộc tiểu bang Nebraska, tới thành phố Sacramento thuộc tiểu bang
California. Trong khi đó đường xe lửa từ Chicago sẽ được xây dựng để
nối tới thành phố Omaha. Vào năm 1862, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Đạo
Luật Đường Xe Lửa Thái Bình Dương (the Pacific Railroad Act) trao trách
nhiệm xây dựng cho 2 công ty: Công Ty Central Pacific Railroad đặt đường
sắt từ thành phố Sacramento hướng về phía đông, còn Công Ty Union
Pacific bắt đầu từ thành phố Omaha hướng về phía tây. Chính quyền Hoa Kỳ
đã cung cấp cho các công ty này các dải đất rộng và cho vay hàng triệu
mỹ kim.
Tuyến đường xe lửa từ Sacramento bắt đầu vào năm 1863
và công trình này đã gặp nhiều khó khăn khi băng qua các rặng núi
Rockies và Sierra Nevada. Để có đủ công nhân làm đường xe lửa, Công Ty
Central Pacific đã thuê mướn hàng ngàn di dân Trung Hoa trong khi đó
hàng ngàn di dân khác từ châu Âu làm việc cho Công Ty Union Pacific. Tới
ngày 10/5/1869, hai tuyến đường xe lửa đông và tây này được nối lại với
nhau tại thành phố Promontory thuộc tiểu bang Utah và như vậy, Hoa Kỳ
là quốc gia đầu tiên có đường xe lửa xuyên lục địa nối hai bờ biển phía
đông và phía tây. Tới cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ đã có 5 tuyến đường xe lửa
xuyên lục địa trong khi đó Công Ty Xe Lửa Pacific Canada (the Canadian
Pacific Railway), bây giờ là Công Ty Đường Sắt CP (CP Rail) cũng hoàn
thành tuyến đường xe lửa xuyên lục địa Canada vào năm 1885 và các tuyến
phụ nối với các thành phố lớn như Montreal, Quebec và Vancouver. Đường
xe lửa đã mở ra các miền đất mới về định cư và thương mại.
Về
phương diện kỹ thuật, sau khi đã giải quyết được sức mạnh của đầu tầu,
các nhà phát minh mới nghĩ tới cách làm cho việc đi du lịch bằng xe lửa
trở nên an toàn và đầy đủ tiện nghi. Muốn cho xe lửa tránh khỏi
các tai nạn, các nhà kỹ thuật phải tìm ra một thứ thắng có hiệu lực.
Vào năm 1869, George Westinghouse tại Schenectady, New York, đã lấy bằng
phát minh về một thứ thắng hơi và nhờ loại thắng này, các con tầu có
thể ngừng lại nhanh hơn là dùng loại thắng tay và số tai nạn giao thông
giảm bớt đi. Sự an toàn của xe lửa cũng tùy thuộc vào đèn hiệu và sự
hiểu biết về vị trí của các chuyến tầu khác nhau. Đầu tiên, đèn hiệu
bằng tay được xử dụng nhưng rồi các tai nạn vẫn tiếp tục xẩy ra khiến
cho người ta nghĩ tới việc dùng các đèn hiệu tự động. Loại đèn tự động
thấy xuất hiện tại nước Anh vào năm 1858, sau đó được dùng trên toàn thế
giới.
Vào năm 1873, nhà phát minh tài tử người Mỹ tên là
Eli Janney đã lấy bằng phát minh về bộ phận ráp toa tự động (automatic
car coupler) rồi vào năm 1893, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Đạo Luật An
Toàn Xe Lửa (the Railroad Safety Appliance Act) bắt buộc mọi con tầu
phải có thắng hơi và bộ phận ráp toa tự động.
Các toa xe lửa Pullman.
Ngành hỏa xa càng phát triển, càng chở được thêm
nhiều hàng hóa và hành khách. Các nhà phát minh vì vậy phải nghĩ tới
việc cải tiến các toa tầu chở người. Khởi đầu toa hành khách không có
mui, nên người đi xe bị phơi bày trước nắng gió, chịu cảnh bụi bậm và
khói đen của đầu tầu. Muốn tránh những bất tiện này, người ta đã chế ra
các loại toa bít bùng nhưng rồi các cải tiến được thêm mãi tới khi toa
tầu được lắp máy điều hòa không khí, các đèn đọc sách và ghế điều chỉnh
được.
Vì xe lửa chạy cả ngày lẫn đêm nên hành khách cần có chỗ nghỉ ngơi. Vào năm 1836, công ty xe lửa Cumberland Valley đã chế tạo ra các toa xe có giường nằm
nhưng vào thời bấy giờ, những toa đặc biệt này chỉ là những toa thường
được ngăn làm hai để đặt các giường thiếu êm ái. Khi dùng các toa này,
hành khách không có chỗ thay quần áo và vấn đề vệ sinh còn là một trở
ngại. Về sau, giường đệm được cung cấp nhưng hành khách phải tự làm lấy
giường nằm. Chính trong tình trạng này mà George Pullman xuất hiện.
Sau khi suy nghĩ nhiều về toa hành khách, Pullman làm
được một toa có giường ngủ theo đúng nghĩa của nó vào năm 1858. Pullman
sửa chữa lại hai toa tầu cũ, thiết lập phòng ngủ và phòng rửa mặt, sơn
bên trong bằng màu đỏ nhạt, bọc ghế bằng vải dạ, thắp sáng toa tầu bằng
đèn dầu và thêm vào các lò sưởi. Giường đu đưa (swinging upper berth) và
ghế biến cải (convertible chairs) là các phần đóng góp lớn lao của
Pullman.
Muốn làm cho toa tầu ngủ sang trọng hơn, người ta cần
tới các toa tầu rộng rãi hơn các toa xe thường, điều này là một trở
ngại cho các công ty hỏa xa. Dù thế, Pullman vẫn đóng được một toa tầu
ngủ có tên là Pioneer, trị giá 20,000 mỹ kim. Đây là một món tiền lớn
lao bỏ vào một toa xe đơn độc. Toa Pioneer đã được dùng để chở Thi Hài
Tổng Thống Lincoln từ Chicago về Springfield. Vào năm 1867, George
Pullman tổ chức công ty chuyên đóng toa xe lửa có giường nằm gọi tên là
The Pullman Palace Car Company.
Pullman
vẫn tiếp tục vẽ kiểu và chế tạo các toa tầu ngủ, dùng các toa có 6 bánh
thay cho 4 bánh và sửa sang bên trong bằng cách cho thêm những thảm
dệt, trần vẽ, các đèn có đế và thêm tất cả đồ đạc phụ thuộc của một
khách sạn sang trọng. Vào năm 1867, George Pullman có 47 toa xe ngủ và
rất bận rộn nên không thể làm thêm các toa xe khác được. Trong vài năm,
một số toa có giường ngủ lại được xuất cảng sang nước Anh và khiến cho
loại xe này trở nên phổ thông tại Anh Quốc. Tới năm 1875 đã có 700 toa
xe Pullman chạy trên nhiều tuyến đường xe lửa. Ngày nay danh từ Pullman
đồng nghĩa với các tiện nghi dùng trên xe lửa.
Vào năm 1917, khi Hoa Kỳ tham dự Thế Chiến
Thứ Nhất thì vào tháng 12 năm đó, chính quyền Hoa Kỳ đã kiểm soát toàn
thể hệ thống hỏa xa chạy trên lãnh thổ Hoa Kỳ và chỉ trả hệ thống này về
cho các công ty tư nhân vào tháng 3 năm 1920.
Trong một thế kỷ, hơi nước được dùng cho các loại xe
chạy trên đường sắt. Các tiến bộ kỹ thuật đã giúp ích vào việc làm gia
tăng sức mạnh và vận tốc của các đầu tầu xe lửa dùng hơi nước. Tới cuối
thế kỷ 19, nhiều con tầu đã đạt được tốc độ tối đa 50 dậm/giờ hay 80 cây
số/giờ. Sau đó các kỹ sư còn tìm cách áp dụng giòng điện vào đầu tầu xe
lửa và vào năm 1895, công ty xe lửa Baltimore - Ohio đã thử nghiệm con
tầu điện chạy trên quãng đường dài 3.5 dậm hay 5.6 cây số trong đường
hầm dưới thành phố Baltimore. Dần dần, điện lực đã thay thế hơi nước và
đã được áp dụng vào các hệ thống hỏa xa của nhiều quốc gia. Việc xử dụng
điện lực khiến cho xe lửa loại bỏ được khói và tiếng động là hai thứ
bất tiện cho vùng đông dân cư. Điện lực còn cung cấp nhiều sức mạnh rất
cần thiết khi xe lửa phải leo các dốc cao, lại cho xe một gia tốc lớn.
Đối với hệ thống hỏa xa dùng điện lực, việc chính là
làm sao có nguồn điện năng liên tục. Tại vùng ngoại ô, điện năng được
cung cấp bằng một đường sắt thứ ba. Trên các quãng đường dài, dòng điện
hai chiều được chuyển qua các sợi dây mắc cao. Một trong các công trình
về điện lực hóa đường xe lửa là 440 dậm đường sắt mới, thực hiện vào năm
1915 từ rặng núi Rockies qua Chicago, Milwakee và Saint Paul. Vài năm
sau, 42 đầu tầu vĩ đại được xử dụng trên các quãng đường này, mỗi đầu
tầu nặng 284 tấn và được chuyển vận bằng 8 động cơ mạnh 420 mã lực,
khiến cho tồng số động lực lên tới 3,440 mã lực. Đồng thời với các cải
tiến về đầu máy xe lửa, đường xe lửa chế tạo bằng sắt đã được thay thế
bằng đường rầy thép và vật liệu mới này bền chắc hơn 20 lần trong khi đó
các toa tầu bằng gỗ cũng được thay bằng toa bọc thép vào năm 1907.
Sau khi động cơ diesel được phát minh, loại động cơ
này được áp dụng vào đầu máy xe lửa và con tầu dùng điện và động cơ
diesel đầu tiên có tên là Burlington Zephyr bắt đầu chuyên chở hành
khách đều đặn vào năm 1934. Ngoài ra còn có nhiều đầu tầu danh tiếng,
chạy trên các tuyến đường khác nhau, chẳng hạn như đầu tầu City of
Salina của Công Ty Union Pacific, Super Chief của Santa Fe và Comet của
các thành phố New York, New Haven và Hartford.
Trong khi các kỹ thuật mới được dùng vào xe lửa, các
tuyến đường được mở rộng và nối dài tới nhiều miền đất xa xôi, thì chính
xe lửa cũng bị cạnh tranh bởi xe hơi, xe buýt, xe vận tải và máy bay.
Trong thập niên 1940 và 1950, việc thay thế các bộ phận hư mòn của xe
lửa đã làm tốn kém hàng tỉ mỹ kim và làm cho một số công ty bị phá sản.
Tới thập niên 1960, các công ty hỏa xa vẫn còn bị thua lỗ, còn cần tới
tiền trợ giúp của chính quyền.
Vào năm 1970, chính quyền Hoa Kỳ thiết lập hệ thống
xe lửa Amtrak để chạy trên các tuyến đường nối giữa nhiều thành phố và
Đạo Luật Tái Tổ Chức Xe Lửa (the Railroad Reorganization Act) trong năm
1973 đã giúp đỡ các công ty hỏa xa duy trì công việc phục vụ bằng con
đường sắt.
Hệ thống xe lửa tại vài nước khác.
Đường xe lửa khi được xây dựng nên, đã mở ra các
triển vọng mới về định cư và thương mại. Vào cuối thế kỷ 19, các xứ
Argentina và Brazil đã phát triển rất nhanh sau khi đặt xong các tuyến
đường xe lửa. Băng qua rặng núi Andes của miền Nam Mỹ cũng có đường xe
lửa và đường xe lửa trung tâm của xứ Peru được bắt đầu vào năm 1870.
Cũng vào cuối thế kỷ 19, các nước Anh, Pháp và Đức đã
lắp đặt các tuyến đường xe lửa trên các miền đất thuộc địa tại châu Phi
và châu Á, chẳng hạn như nước Anh đã giúp cho xứ Ấn Độ 25,000 dậm đường
rầy, tương đương với 40,200 cây số. Nước Nga bắt đầu đặt tuyến đường xe
lửa xuyên Tây Bá Lợi Á (the Trans-Siberian) dài 5,600 dậm (9,910 cây
số) vào năm 1891 và hoàn thành vào năm 1916. Nước Úc khởi công về đường
xe lửa dài 1,108 dậm (1,783 cây số) vào năm 1912 và hoàn thành vào năm
1917, nối hải cảng Pirie với thành phố Kalgoordie. Tại Trung Hoa vào năm
1949 đã có 29,000 cây số đường sắt và hệ thống này gia tăng tới 54,000
cây số vào năm 1980 rồi mỗi năm, 1,000 cây số đường mới được tăng thêm.
Nước Nhật Bản cũng phát triển rất nhanh về hệ thống
xe lửa vào cuối thế kỷ 19. Từ năm 1964, Nhật Bản đã thực hiện loại xe
lửa cao tốc nối hai thành phố Tokyo và Osaka rồi về sau, hệ thống xe lửa
Shinkansen đã là một biểu tượng của nền kỹ thuật và giao thông của nước
Nhật Bản tân tiến.
Hệ thống xe lửa bắt đầu từ nước Anh, đã phát triển qua khắp châu Âu.
Vào năm 1870, phần lớn các quốc gia của châu Âu đều có các tuyến xe lửa
chính và các kỹ sư đã đục các con đường hầm xuyên qua rặng núi Alps để
nối nước Pháp với hai nước Ý và Thụy Sĩ bằng các tuyến xe lửa. Vào cuối
thế kỷ 19, xe lửa chở hành khách danh tiếng nhất châu Âu có tên là
Chuyến Xe Tốc Hành Phương Đông (the Orient Express) bắt đầu hoạt động
vào năm 1883 giữa thành phố Paris của nước Pháp nối với thành phố
Istanbul của nước Thổ Nhĩ Kỳ.
Nước
Pháp vào giữa thế kỷ 19 đã có 6 công ty xe lửa loại lớn được thành lập :
miền Bắc, miền Đông, miền Tây, miền Trung, P.L.M
(Paris-Lyon-Méditerrannée) và P.O (Paris-Orléans). Sau này, chính phủ
Pháp quốc hữu hóa các công ty xe lửa vào năm 1938 để thành lập Công Ty
Đường Sắt Quốc Gia S.N.C.F. (La société nationale des chemins de fer).
Vào đầu năm 1976, nước Pháp bắt đầu thực hiện hệ thống xe lửa cao tốc
TGV (train à grande vitesse) trên tuyến đường Paris - Lyon dài 425 cây
số nhờ đó thời gian ngồi xe giảm từ 3 giờ 50 phút xuống còn dưới 2 giờ.
Tới năm 1987, loại xe lửa cao tốc TGV được nới rộng tới các thành phố
Lille, Rouen, Marseille, Grenoble, Lausanne, Genève và Berne của nước
Thụy Sĩ, rồi về sau hệ thống này được phát triển sang các miền Bắc, miền
Nam và miền Đại Tây Dương của nước Pháp.
Hệ thống xe lửa là một phương tiện vận chuyển rất
nhanh chóng, không gây ô nhiễm cho môi trường sống, rất an toàn, không
những dùng cho hành khách mà còn dùng cho các vật liệu nguy hiểm như các
chất nổ, các loại khí nén hay các nguyên liệu phóng xạ. |