Ngày 13 tháng 9 năm 1906 Alberto Santos-Dumont tại Paris đã thực hiện
chuyến bay trình diễn của máy bay 14 Bis, máy bay này đã tự cất cánh, tự
bay và tự hạ cánh không cần thiết bị phóng, chiều gió hoặc các phương
tiện phụ trợ từ bên ngoài, nhiều người coi đây thật sự là chuyến bay đầu
tiên của máy bay theo đúng nghĩa. Sau đó các cá nhân tiên phong đua
nhau sản xuất máy bay, tăng kích thước, tăng công suất, hoàn thiện kết
cấu: thời kỳ này máy bay chưa có thân vỏ chỉ có khung xương bằng gỗ,
cánh là khung gỗ căng vải, cánh quạt đẩy đặt sau cánh và người lái, thổi
gió về phía sau.
Ngày 13 tháng 11 năm 1907 nhà sáng chế người Pháp Paul Cornu tự chế máy
bay trực thăng bay lên được độ cao nửa mét và giữ được trong không khí
20 giây.
Trong khi máy bay thông thường từ đây phát triển rất nhanh mạnh thì máy
bay trực thăng tiến bộ chậm chạp hơn rất nhiều vì sự phức tạp kỹ thuật
của nó. Chỉ đến sau thế chiến II các khó khăn này mới được giải quyết và
trực thăng mới có cơ hội phát triển mạnh.
Thế chiến thứ nhất
Liên tiếp trong các năm trước thế chiến thứ nhất việc chế tạo máy bay
được đẩy mạnh bởi các con người nhiệt huyết và các công ty. Người ta tổ
chức các giải thưởng rất lớn cho nhiều cuộc thi hàng năm bay xuyên biển
La Manche giữa Paris và London, các cuộc thi này đã góp phần rất lớn cho
việc hoàn thiện công nghệ máy bay. Việc ngiên cứu máy bay bây giờ đã
không còn là việc của những người nhiệt huyết tiên phong nữa mà đã là
cạnh tranh của các quốc gia và các hãng lớn.
Cũng như mọi ngành tiên phong khác máy bay được ứng dụng đầu tiên cho
mục đích quân sự và ở thế chiến thứ nhất lần đầu tiên máy bay tham chiến
như một lực lượng quân sự mới và sau này trở thành lực lượng không quân
của các quốc gia. Và chiến tranh là động lực rất mạnh để hoàn thiện máy
bay. Máy bay của thời kỳ này tất cả đã có thân vỏ hình dạng thích hợp
để tăng hiệu suất khí động học, vỏ căng bằng vải hoặc ốp bằng gỗ, vẫn
chưa có cabin kín cho phi công. Cũng như trước kia lực đẩy vẫn bằng cánh
quạt, nhưng để hợp lý cấu trúc máy bay và tăng hiệu suất khí động học
và cơ học, các cánh quạt đều là loại kéo tải thay vì đẩy tải như một số
các mẫu cũ ở đầu thế kỷ. Do vận tốc còn thấp nên để tăng lực nâng cần
diện tích cánh lớn, máy bay có 2 tầng cánh nâng (Biplane). Về vũ trang:
súng máy lắp trên cánh hoặc trước mặt phi công hoặc nếu máy bay có hai
chỗ ngồi thì người ngồi sau bắn súng máy, hết đạn thì phi công rút súng
lục ra bắn nhau. Máy bay có thể không chiến bằng súng hoặc tấn công quân
bộ bằng súng hoặc bằng cách thả lựu đạn, ngoài ra còn để tiến công
khinh khí cầu của đối phương, tiến hành trinh sát và liên lạc đưa thư.
Mẫu máy bay nổi tiếng nhất thời kỳ này là máy bay Sopwith Camel của Arnh
với các thông số chính như sau: kích thước dài × sải cánh × cao: 5,7 ×
8,5 × 2,5 m; Khối lượng rỗng/có tải: 430/672 kg; Vận tốc Max/thiết kế:
180/92 km/h; trần bay 6.400 m; động cơ: 9 xi lanh 150 mã lực.
.