Rađa biết bay
Loài dơi nếp mũi quạ có tên khoa học là Hipposideros armiger (Hodgson,
1835). Khác với đại đa số các loài trong họ hipposideridae nói riêng và
nhóm dơi muỗi nói chung, dơi nếp mũi quạ có kích thước khổng lồ: sải
cánh khoảng 0,45m, trọng lượng 37 – 51g.
Đây là loài có vùng phân bố rộng, trải
dài từ Nepal đến Đài Loan. Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã ghi nhận loài
này có ở Hà Tĩnh, Quảng Bình, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng
Nai...
Loài dơi chân đệm thịt Tylonycteris pachypus, đang nắm giữ kỷ lục về loài thú nhỏ nhất Việt Nam.
Tương tự những người anh em bé nhỏ của mình, dơi nếp mũi quạ có khả năng bay lượn và định vị bằng sóng siêu âm rất tốt nhờ cấu trúc lá mũi rất phát triển. Cấu trúc lá mũi ở loài này khá phức tạp với các kết cấu trung gian và bốn nếp mũi phụ hai bên mõm.
Các thuỳ lá mũi theo thứ tự từ trán ra
gồm có: gờ trước trán (có hình móng ngựa), lá sau, lá giữa, lá trước,
đệm trung gian, lá mũi phụ. Tần số sóng siêu âm mà loài này sử dụng để
định vị dao động quanh 78kHz.
Sau khi được sinh ra, dơi con thường bám vào dơi mẹ để bú sữa.
Hiệp sĩ bóng đêm
Tuy kích thước to lớn hơn đại đa số các
loài dơi muỗi khác, nhưng thức ăn chính của dơi nếp mũi quạ vẫn là các
loài côn trùng nhỏ như mối, bướm đêm và một số loại bọ cánh cứng... Ban
ngày chúng trú ngụ trong các hang đá thành từng nhóm nhỏ khoảng vài chục
cá thể. Đôi khi, có thể bắt gặp dơi nếp mũi chia sẻ “ngôi nhà” của chúng với một vài loài dơi khác.
Khi mặt trời vừa lặn, dơi nếp mũi quạ bay ra khỏi chỗ trú, nhưng không đi kiếm ăn ngay mà đi tìm các vũng nước để “giải khát”,
sau đó mới lao vào màn đêm, săn tìm những loài côn trùng ưa thích. Mùa
sinh sản của loài này kéo dài từ tháng tư đến tháng bảy. Sau khi giao
phối, những bà mẹ dơi thường tách bầy và bay tới một hang khác, tránh xa
đám dơi đực đầy bọ chét để “lâm bồn”.
Thông thường, mỗi dơi mẹ chỉ sinh một
dơi con. Sau khi sinh, dơi mẹ chăm sóc dơi con liên tục trong ba đến bốn
ngày. Khi dơi con có thể tự bám vào trần hang, dơi mẹ mới bay ra ngoài
kiếm ăn, nhưng cũng chỉ quanh quẩn quanh cái hang chúng để dơi con lại.
Sau khoảng năm tháng, dơi con có thể tự kiếm mồi…
Loài dơi nếp mũi quạ Hipposideros armiger (bên trái) có cơ thể lớn hơn rất nhiều so với đồng loại.
Dơi nếp mũi quạ là loài
rất có ích, chúng là thiên địch của nhiều loài côn trùng có hại cho
nông nghiệp. Theo tính toán của các nhà khoa học, một con dơi nếp mũi
quạ mỗi đêm tiêu thụ một lượng côn trùng bằng 3/4 trọng lượng cơ thể nó.
Một bầy dơi khoảng 50 con mỗi năm có thể tiêu diệt gần 700kg côn trùng.
Ngoài ra, phân của loài dơi này chứa rất nhiều khoáng vi lượng, rất tốt
để bón cho cây cảnh…
Kỷ lục siêu nhỏ
Nếu các loài thú ở Việt Nam tổ chức thi xem loài nào có kích thước nhỏ nhất thì dơi chân đệm thịt sẽ đoạt chức quán quân. Có tên như thế vì ngón và bàn chân loài dơi này mang đệm thịt dẹt, còn tên khoa học của chúng là Tylonycteris pachypus (Temminck,
1840). Chúng rất nhỏ, trọng lượng không quá 2g, sọ rất dẹp và mảnh: hộp
sọ của chúng không dày quá 2,5mm, giữ kỷ lục hộp sọ nhỏ nhất trong số
các loài thú Việt Nam.
Dơi chân đệm thịt có khả năng bay lượn
và định vị bằng sóng siêu âm rất tốt (tần số sóng siêu âm mà loài này sử
dụng vào khoảng 60kHz). Các nhà khoa học đã ghi nhận được loài dơi này ở
nhiều địa phương như: Lai Châu, Lào Cai, Kon Tum, Nghệ An, Lâm Đồng,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai... Ban ngày, trong khi các loài dơi to
lớn hơn phải chật vật đi tìm những hang động, tán cây hay hốc cây để
treo ngược ngủ ngày, dơi chân đệm thịt nhờ kích thước nhỏ và cái sọ
thuộc hàng “siêu dẹp”, có thể chui vừa các khe mọt trên các ống tre nứa, lồ ô trong rừng.
Dơi chân đệm thịt thường ngủ chung thành
từng nhóm nhỏ khoảng năm bảy con. Khi mặt trời vừa lặn, dơi chân đệm
thịt rời bỏ ngôi nhà ống tre ấm áp để bay đi kiếm mồi. Nhờ kỹ năng bắt
côn trùng cực kỳ điêu luyện, mỗi đêm một chú dơi chân đệm thịt tiêu thụ
một lượng côn trùng bằng 3/4 trọng lượng cơ thể.