Hạt cọ được chất lên một chiếc xe tải ở Serba Jadi, Indonesia.
Tổng
thư ký APROBI, Paulus Tjakrawan, cho biết Indonesia là nhà sản xuất dầu
cọ lớn nhất thế giới và lớn thứ 9 về sản xuất mía đường, nên có tiềm
năng rất lớn để phát triển nhiên liệu sinh học. Cơ quan Năng lượng Quốc
tế (IEA) dự đoán rằng nếu xu hướng tiêu dùng tiếp tục duy trì nhịp độ
như hiện nay thì nhiên liệu sinh học có thể chiếm tới 27% trong tổng số
nhiên liệu tiêu thụ của ngành vận tải toàn cầu vào năm 2050. Hiện
công ty thuộc sở hữu nhà nước Pertamina của Indonesia đang bán hai loại
nhiên liệu sinh học sản xuất trong nước là dầu Diesel sinh học và
biogasoline có tên gọi thương mại là Biosolar và Biopremium/Biopertamax.
Biosolar chứa 95% dầu Diesel và 5% nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ
dầu cọ. Tuy nhiên, trong tháng 3/2012, tỷ lệ nhiên liệu sinh học đã được
nâng lên 7,5%. Biopremium /Biopertamax bao gồm 95% xăng và 5% ethanol
sinh học được sản xuất từ mía hay ngô. Indonesia
hiện là nước sản xuất ethanol sinh học lớn thứ 16 thế giới, nhưng sản
lượng mới chỉ bằng 1% của Brazil. Năm 2010, Indonesia sản xuất được
244.000 nghìn lít ethanol sinh học, trong đó hầu hết được sử dụng cho
tiêu dùng công nghiệp. Tuy nhiên, Chính phủ đã chấm dứt chương trình
ethanol sinh học năm 2010 sau một loạt bất đồng về xây dựng chỉ số giá
thị trường giữa các nhà sản xuất và Bộ Năng lượng nước này. Ông
Paulus Tjakrawan cho biết các lợi ích của việc thúc đẩy sản xuất nhiên
liệu sinh học đã vượt xa phạm vi đa dạng hóa năng lượng. Sản xuất Diesel
sinh học cũng như sản xuất các sản phẩm phụ như glycerin thô có thể
được sử dụng để sản xuất xà phòng và mỹ phẩm. Sản xuất nhiên liệu sinh
học còn cung cấp nhiều công ăn việc làm cho thị trường lao động và giảm
lượng khí thải carbon gây hiệu ứng nhà kính. APROBI
cho biết Pertamina đã sử dụng 350.000 nghìn lít ethanol sinh học diesel
sinh học trong hỗn hợp nhiên liệu của hãng, và chỉ riêng lượng nhiên
liệu sinh học này đã đòi hỏi một lượng lao động tới 30.000 người làm
việc trong các đồn điền trồng cọ dầu và giúp giảm tới 900.000 tấn khí
thải CO2 so với việc phải dùng nhiên liệu hóa thạch. Hơn nữa, đối với
Indonesia, sản xuất nhiên liệu sinh học không tác động bất lợi đến giá
và an ninh lương thực trong nước, bởi Indonesia đạt sản lượng 23 triệu
tấn dầu cọ thô/năm, trong đó xuất khẩu 70%, nên có thể vẫn đảm bảo nhu
cầu nội địa và chỉ cần giảm xuất khẩu để lấy nguyên liệu cho sản xuất
nhiên liệu sinh học. |