Thế nhưng, thiết kế chiếc máy ảnh sớm nhất, Obscura, có cấu tạo đơn giản
 với một ống kính và chiếc hộp. Được giới thiệu vào năm 1558, nó được sử
 dụng chủ yếu như một công cụ để quan sát hình ảnh một cách rõ nét hơn 
và ngay lập tức trở thành một hiện tượng. Đầu thế kỷ 19, nhà khoa học 
William Hyde Wollaston đã trình làng mẫu máy ảnh Lucida. Khi đó, máy ảnh
 mang thiết bị quang học giúp một số nghệ sĩ xem cảnh, người, hoặc vật ở
 xa và chuyển hình ảnh lên trên giấy. Sau đó, các nghệ sĩ tiến hành vẽ, 
kẻ hoặc sơn. Cả máy ảnh Obscura và Lucida mới chỉ cung cấp những hình 
ảnh mang tính tạm thời.
Các nghiên cứu tiếp sau đó được tiến hành đã cố gắng tìm ra cách ghi 
hình ảnh lên vật liệu. Năm 1822, nhà nghiên cứu người Pháp Joseph 
Nicéphore Niépce đã tạo ra những bức ảnh đầu tiên bằng cách sử dụng giấy
 tráng hóa học để ghi lại những hình ảnh tạm thời. Nghiên cứu sau đó đã 
được nâng lên một tầm cao khi ông bắt đầu xem xét : bằng cách nào có thể
 giữ lại những hình ảnh vĩnh viễn lên trên giấy. Năm 1829, một người 
Pháp khác là Louis-Jacques-Mande Daguerre đã hợp tác với Niépce cùng 
nghiên cứu và phát triển quá trình tạo ảnh chuẩn. Tuy nhiên, Joseph 
Niépce đã mất 1833, nhưng Daguerre vẫn tiếp tục công việc. Cuối cùng vào
 năm 1837, ông đã gặt hái thành công. Sau nhiều năm dài thử nghiệm, 
Daguerre đã giới thiệu phép chụp hình đage – quá trình đưa những hình 
ảnh chụp được lên trên giấy ( hình ảnh được tạo ra bằng sự kết hợp hóa 
chất thủy ngân và bạc).
 Chiếc hộp để chụp ảnh
Chiếc hộp để chụp ảnhMột
 phiên bản được cải tiến hơn so với phương pháp chụp hình đage là 
calotype và được ứng dụng vài năm sau đó. Năm 1940, quá trình calotype 
cho phép người dùng tạo ra nhiều bản sao ảnh bằng cách sử dụng phương 
pháp âm và dương bản. Phương pháp mới này là động lực thúc đẩy sự phát 
triển sử dụng hình ảnh chụp trong các quảng cáo. Không lâu sau đó, vào 
những năm 1850, các nhiếp ảnh gia thậm chí bắt đầu tiến hành thử nghiệm 
việc chụp ảnh dưới nước. Cho tới năm 1850, quá trình chụp ảnh vẫn còn 
rườm rà và cần tới 30 phút tiếp xúc ánh sáng. Năm 1851, Frederick Scott 
Archer đã phát minh ra quá trình Collodion giúp thời gian tiếp xúc ánh 
sáng để chụp hình chỉ còn từ 2-3giây.
Trước 1871, nhiếp ảnh đã trải qua một quá trình phát triển đáng kể khi 
tấm kính ảnh được phủ một lớp hóa chất ướt, xử lý hình ảnh ngay tức thì.
 Quá trình bạc bromua đĩa gelatin khô được phát minh bởi Richard Leach 
Maddox giúp không cần phải xử lý các âm bản ngay lập tức. Đây là một 
phát minh quan trọng vì từ đó, hình ảnh không nhất thiết phải xử lý ngay
 tức thì.
George Eastman là một nhà tiên phong trong phát triển máy ảnh và nhiếp 
ảnh. Ông đã tạo ra Kodak vào năm 1888. Ông cùng làm việc với một đội ngũ
 các nhà khoa học để tạo ra cuộn phim đầu tiên trên thế giới và đưa đến 
tay đông đảo người tiêu dùng vào năm 1889. Đây chính là cột mốc quan 
trọng trong ngành giải trí cũng như trong lịch sử truyền thông, bởi sự 
phát triển phim cuộn chính là tiền đề dẫn tới một phát minh quan trọng 
khác của Thomas Edison – máy ảnh ghi lại hình ảnh chuyển động vào năm 
1891.
Những năm 1800 chứng kiến sự mở cửa của các ngành công nghiệp chụp ảnh. 
Đây chính là giai đoạn đặt nền tảng cho sự phát triển của máy ảnh và 
ngành công nghiệp chụp ảnh; và thế giới cũng chứng kiến những phát minh 
quan trọng nhất của thế kỷ trong thời gian này. Ngày nay, chúng ta có 
thể thấy những mẫu máy ảnh thật đơn giản, cuốn phim trong ngành máy ảnh 
kỷ thuật số và điện ảnh đã đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng, từ người 
bình thường đến hầu hết các chuyên gia. Các yếu tố quan trọng sự phát 
triển xa hơn của máy ảnh có thể kể đến là: độ phân giải lớn hơn cho ngay
 cả thứ đơn giản nhất; giá của máy ảnh ngày càng giảm; khả năng sử dụng 
được trong bất kỳ loại điều kiện ánh sáng; tương thích qua với nhiều 
phần mềm, phần cứng và các loại hình ảnh; giàu màu sắc và giai điệu.
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ kỹ thuật số, giá của 
máy ảnh ngày càng giảm giúp ngay cả trẻ em và thanh thiếu niên có thể tự
 hào sở hữu những chiếc máy ảnh với chất lượng tốt. Máy ảnh và nhiếp ảnh
 bắt đầu hướng tới trẻ em và chính điều này mang đến cho ngành công 
nghiệp máy ảnh một đối tượng khách hàng đông đảo. Và trong suốt chiều 
dài lịch sử phát triển, đây cũng chính là nổ lực của các nhà nghiên cứu 
và phát triển nhằm biến việc sử dụng máy ảnh ngày càng trở nên rộng rãi 
hơn trong xã hội.