Nghiên cứu lịch sử quân sự Việt Nam trong quá trình chiến tranh giải phóng cũng như bảo vệ Tổ quốc thì giới quân sự đều phải công nhận Việt Nam lúc này có sự chuẩn bị kỹ càng nhất, bài bản nhất, thực lực khởi điểm mạnh nhất và thậm chí, có những lực lượng quân sự mang tính đột phá, lại còn chiếm ưu thế hơn so với đối tượng được coi là mối nguy cơ, thách thức đến an ninh chủ quyền Việt Nam. Chưa xuất hiện nhưng đã có rất nhiều đánh giá, bình luận về việc 6 chiếc tàu ngầm mà Việt Nam sở hữu trong năm 2016. Nào là “tàu ngầm KILO thay đổi cán cân quân sự trên Biển Đông”; “sức mạnh Hải quân Việt Nam có bước phát triển nhảy vọt”…và ngay cả Trung Quốc, một cường quốc khu vực có lượng tàu ngầm gấp hơn 10 lần nhưng cũng tỏ vẻ lo ngại, thậm chí cho rằng nó “nguy hiểm đến an ninh quốc gia Trung Quốc!!!”… Tàu ngầm Kilo Hà Nội Tại sao tàu ngầm Việt Nam được giới quân sự quan tâm? Vì tàu ngầm KILO của Việt Nam quá hiện đại, tiên tiến vượt trội các loại tàu ngầm khác trong khu vực chăng? Không phải! KILO của Việt Nam chẳng khác so với hơn 70 chiếc tàu ngầm lớp này lớp kia của Trung Quốc và đặc biệt chẳng thấm vào đâu so với tàu ngầm Soryu công nghệ AIP của Nhật Bản. Vì do Hải quân Việt Nam sử dụng tàu ngầm quá tài giỏi chăng? Cũng không phải, bởi đây là lữ đoàn tàu ngầm đầu tiên trong biên chế tổ chức của Hải quân Việt Nam. Vậy thì sự đánh giá đó xuất phát từ cơ sở nào? Chính xác, giới quân sự quan tâm đến tàu ngầm Việt Nam bởi 2 khía cạnh. Một là địa thế nơi nó hoạt động có tạo ra mối nguy hiểm cực kỳ, khó đối phó cho mục tiêu mà nó nhắm tới hay không và địa thế đó có một vị trí như thế nào trên Biển Đông và trong khu vực châu Á-TBD. Hai là tư tưởng và hình thức tác chiến của tàu ngầm Việt Nam như thế nào. Địa thế và vị trí Việt Nam trong tác chiến ngầm Rất đơn giản và dễ hiểu là vì tàu ngầm KILO được giới quân sự mệnh danh là “lỗ đen” trên đại dương, nghĩa là có tính bí mật rất cao, lại nằm trong tay Việt Nam, một quốc gia có vị trí chiến lược rất quan trọng trên Biển Đông với một địa thế quân sự rất hiểm hóc, công thủ đều lợi hại. Với một “địa thế” như vậy chỉ cần có một “lực” nhỏ tối thiểu cũng tạo ra được một sức mạnh đáng nể, một thế trận vững chắc. Với một địa thế như vậy thì tàu ngầm KILO sẽ phát huy hết sở trường, ưu thế vốn có của nó và do vậy độ nguy hiểm mà nó đem đến cho kẻ thù là cực cao. Với một địa thế như vậy lại nằm trong một vị trí có tầm quan trọng chiến lược, đó là án ngữ tuyến đường hàng hải huyết mạch từ Ấn Độ Dương sang TBD là “con đường sống” cho nền kinh tế nhiều quốc gia, cường quốc…thì không quan tâm không được. Sẽ ra sao nếu như eo biển Malacca bị một chiếc tàu ngầm của Malaysia hay của Singapore cùng với mấy quả thủy lôi bịt lối?... Đó là lý do vì sao khi Việt Nam chỉ mới sở hữu một số lượng tàu ngầm ít ỏi mà đã khiến cho ai đó có sự lo ngại và giới quan sát, quân sự lại quan tâm. Tư tưởng và hình thức tác chiến của tàu ngầm Việt Nam Sẽ chẳng bao giờ có một tờ báo nào, bài báo nào có thể, có khả năng nêu được cái nghệ thuật tác chiến ngầm của Hải quân Việt Nam, bởi lẽ những tài liệu đó bao gồm như: Chiến thuật ngầm trong phục kích, rải thủy lôi; chiến thuật ngầm trong bí mật vận động bám sát mục tiêu; chiến thuật ngầm trong hợp đồng đưa đón đặc công nước; chiến thuật ngầm trong tấn công vào sân bay bến cảng; vân vân và vân vân... Nhưng về tư tưởng tác chiến (cũng như tư tưởng quốc phòng) thì chúng ta chẳng có gì phải giấu giếm. Quả thật là với hơn 3000 km đường bờ biển, với hơn 1 triệu km vuông phải bảo vệ thì với 6 chiếc tàu ngầm chỉ là “muối bỏ bể”. Chúng ta không hy vọng tàu ngầm KILO sẽ thực hiện chiến thuật “giăng mành”…để tiêu diệt tàu ngầm đối phương hay vận động tấn công vào các khu trục hạm của địch… các lực lượng khác sẽ chia sẻ nhiệm vụ này. Do đó, tư tưởng chỉ đạo tác chiến là tàu ngầm Việt Nam đã đánh là phải tổ chức đánh hiểm, ưu tiên những mục tiêu mang tầm chiến lược, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, quân sự của đối phương. Chẳng hạn tấn công vào các đoàn tàu vận tải quân sự, các tuyến đường hàng hải quan trọng của đối phương; tấn công vào tàu sân bay địch… Thứ hai trong tư tưởng tác chiến thì lấy hình thức phục kích (dấu hiệu cơ bản của phòng thủ, tự vệ, không đe dọa tấn công ai) là lối đánh sở trường, chủ yếu. Con Hổ rượt đuổi để vồ mồi (rượt-vồ) bao giờ cũng tốn sức và có kết quả thấp hơn con Hổ ngồi rình chờ con mồi đi qua để vồ (rình-vồ). Hình thức “rượt-vồ” chỉ xảy ra trên một khu vực rộng mênh mông mà không thể dùng trên một khu vực chật hẹp, có nhiều độc đạo…là nơi chỉ hợp với cách “rình-vồ”. “Rình-vồ” ở những khu vực đó thì xác suất thành công gần như 100%. Biển Đông đã trở nên quá chật hẹp khi có quá nhiều KILO và các chủng loại tàu ngầm khác nên rất phức tạp khi xác nhận bạn, thù mà sai lầm có thể gây ra thảm họa. Vì thế tàu ngầm hoạt động tác chiến trong khu vực đó càng đơn lẻ, có tính độc lập cao bao nhiêu càng có hiệu quả bấy nhiêu. Mặt khác, bề dày kinh nghiệm hoạt động tàu ngầm Việt Nam còn mỏng, cho nên việc vận động tiếp cận, tấn công mục tiêu cần phải có thời gian để thuần thục. Trong khi đó, với địa thế “đắc địa” của Việt Nam thì tàu ngầm chúng ta có rất nhiều vị trí để “rình” (phục kích), những vị trí đó là những vị trí mà “con mồi” phải đi qua và buộc phải đi qua. Chính vì thế mà “rình-vồ” là hình thức tác chiến tối ưu nhất và nguy hiểm khó lường nhất của lực lượng tàu ngầm Việt Nam gây ra cho đối phương. “Rình-vồ” trong thời chiến là tàu ngầm Việt Nam bí mật chờ đợi trong vùng “biển sạch”, khi mục tiêu xuất hiện đúng tầm hỏa lực là ấn nút. “Rình-vồ” trong thời bình là tàu ngầm Việt Nam bí mật bám sát thường xuyên các mục tiêu chiến lược như tàu sân bay, các tuyến hàng hải quan trọng của đối phương…để khi chuyển sang trạng thái chiến tranh, có lệnh là ấn nút. Địa lợi, vị trí chiến lược và tư tưởng chỉ đạo sử dụng chúng là điều duy nhất khiến cho giới quân sự đối phương lo sợ trước việc xuất hiện tàu ngầm Việt Nam trên Biển Đông dù cho số lượng và chất lượng chẳng thấm vào đâu với họ. Nếu như chuyên gia quân sự của Nga nhận xét rằng: “Tàu ngầm KILO chỉ cần một quả tên lửa thì tàu sân bay cỡ Liêu Ninh của Trung Quốc chìm nghỉm” là đúng, thì… coi thường 6 chiếc tàu ngầm KILO của Việt Nam chỉ gồm những kẻ “diều hâu không tỉnh táo”. Tuy nhiên, tàu ngầm Việt Nam chỉ phòng thủ, tự vệ, trong chủ quyền biển đảo Việt Nam mà không đe dọa, không đủ sức đe dọa đến chủ quyền biển đảo của quốc gia nào. |