Albert Schatz
Người tiên phong đi đầu phát minh thế hệ kháng sinh mới chính là
tiến sĩ Albert Schatz (2/1922-1/2005), người Mỹ. Ông theo đuổi ước mơ
này từ khi còn học đại học và cũng là người đã tìm ra hàng loạt các dòng
khuẩn gây bệnh có tên là streptomycyces bacteria. Ông đã tiến hành phân
tích và tìm ra các thành phần có tác dụng tiêu diệt khuẩn gam âm được
đặt tên là streptomycin. Sự kiện tìm ra streptomycin đã dấy lên nhiều
tranh luận và đồn thổi trong cộng đồng khoa học trong nhiều thập kỷ qua.
Thực tế, streptomycin được xem là vị “cứu tinh” cho nhân loại,
nhiều binh lính trong chiến tranh được cứu sống nhờ loại thuốc kháng
sinh này. Năm 1942, Albert Schatz tham gia quân đội, phục vụ trong phòng
thí nghiệm của Bệnh viện Miami Hospital, nhờ công việc trên ông đã tận
mắt chứng kiến những người lính bị viêm nhiễm phải chịu cảnh tàn phế do
thuốc kháng sinh penicillin đã bị vô hiệu hoá. Từ đây thôi thúc ông
nghiên cứu tìm ra những loại khuẩn kháng penicillin. Sau khi tìm được
thủ phạm, ông đã gửi các mẫu đến cho TS. Waksman để thử nghiệm tiếp.
Năm 1943, sau khi ra quân, Albert Schatz tiếp tục làm việc trong
phòng thí nghiệm của TS. Waksman ở ĐH Rutgers, ông tiếp tục nghiên cứu
về khuẩn kháng penicillin và những loại khuẩn có trong đất. Cũng thời
gian trên, Wakesman đã tiếp tục thực hiện các công đoạn nghiên cứu của
Albert để tinh chế streptomycin, đặc biệt là quá trình thử nghiệm trên
động vật và hoàn chỉnh công thức. Theo Albert, chính ông là người đã
thuyết phục Wakesman hợp tác để hoàn thành dự án về steptomycine mà ông
đã thực hiện từ khi còn ở Bệnh viện quân đội Miami Hospital.
Theo
giáo sư George Piecznik, bạn của Albert Schatz và Wakesman, Albert
Schatz là chủ nhân đích thực của công trình tìm ra streptomycin, thậm
chí trong thời gian nghiên cứu, Albert Schatz đã cưới vợ nhưng do sự cấp
bách của công việc, ông đã đưa vợ vào ở trong phòng thí nghiệm để không
gây ảnh hưởng đến dự án. Theo George, “cả hai cùng dựa vào một bức
tường” nhưng cuối cùng công “làm đổ bức tường” lại thuộc về Waksman bằng
giải Nobel được trao năm 1952 . Sự việc trên đã dẫn đến nhiều tranh
luận gay gắt. Ban đầu, Đại học Rutgest và Wakesman kịch liệt phản đối
các luận cứ Albert Schatz đưa ra nhưng qua tài liệu lưu trữ và nhân
chứng sống đã làm cho sự việc trên không kết thúc một cách đơn giản như
vậy. Sự kiện này còn được “làm chứng” bởi nhiều nạn nhân sống sót trong
các vụ diệt chủng người Do Thái do Phát xít Đức gây ra, đây là những
người trực tiếp được hưởng lợi từ thuốc kháng sinh do Albert Schatz phát
minh.
Cuối cùng, những tranh chấp nói trên đã kết thúc bằng một sự dàn
xếp bởi Wakesman, vị tiến sĩ này đồng ý Albert Schatz là người đồng phát
minh steptomycine nhưng với điều kiện Albert đã phát hiện ra
streptomycin khi làm việc trong phòng thí nghiệm của Waksman và sử dụng
các thiết bị của Wakesman. Cuối cùng, Albert Schatz vẫn từ chối lời dàn
xếp này và không thừa nhận chung giải Nobel với Wakesman.
Oswald Avery
Oswald Avery (10/1877- 2/1955) là nhà vật lý học, nhà vi khuẩn học
người Mỹ. Phần lớn những phát minh của ông được ra đời khi công tác tại
Bệnh viện Đại học Rockefeller, thành phố New York. Oswald là nhà khoa
học tiên phong trong lĩnh vực sinh học phân tử và miễn dịch học. Đặc
biệt là phát minh nổi tiếng năm 1944 cùng với Colin MacLeod và Maclyn
McCarty, coi ADN là vật liệu để tạo ra gen và nhiễm sắc thể, nhưng đáng
tiếc ông lại bị bỏ quên, không được trao giải Nobel cho các thành tựu
nghiên cứu của mình. Oswald Avery tên đầy đủ là Oswald Theodore Avery
ForMemRS, tốt nghiệp bác sĩ phẫu thuật năm 1904 trước khi trở thành nhà
nghiên cứu chuyên nghiệp tại Phòng thí nghiệm Hoagland Laboratony ở
Brooklyn. Nhiều năm liền, ông đã cùng McLeod và McCarty thực hiện các
nghiên cứu quan trọng về protein tế bào, đặc biệt là về thông tin di
truyền.
Đây là những kỹ thuật mở đường cho nhân loại hiểu sâu thêm về ADN
và nếu không có ADN sẽ không có di truyền. Ngày nay, khoa học hiện đại
đều biết rằng, cả ADN lẫn di truyền đều có liên quan mật thiết với nhau,
nhưng những năm đầu thế kỷ XX người ta lại có những giả thiết khác nhau
về di truyền và phải chờ đến khi có phát minh của Oswald Avery- Macleod
- McCarty thì lý thuyết trên mới sáng tỏ. Phát minh của ba nhà khoa học
này đã chứng minh được rằng, một phân tử có trong khuẩn bị tiêu diệt vì
nhiệt có thể chuyển đổi thành một vi khuẩn sống, giúp khoa học cách ly
được phân tử di truyền từ khuẩn đã bị tiêu diệt bởi nhiệt. Các phân tử
mà nhóm nghiên cứu của Oswald Avery xác định có khả năng biến đổi các vi
khuẩn đã được chứng minh là vật liệu ADN. Đây cũng là lần đầu tiên khoa
học phát hiện thấy một phân tử chắc chắn có vai trò trong di truyền.
Nhà vật lý học Oswald Avery. | Trường
hợp Oswald Avery không được trao giải Nobel Y học được xem là “hy hữu”
bị “đánh cắp giải” hoặc nhầm lẫn “ cố ý” của Ủy ban trao giải, bởi công
lao của Oswald Avery đã quá rõ, người đầu tiên khám phá và định nghĩa
ADN là một vật liệu di truyền. Oswald công bố khám phá này sau năm 1944
và trước đó, từ năm 1932- 1942 ông đã được tiến cử nhiều lần nhưng đều
bị bỏ qua, giới khoa học chưa chịu nhìn nhận thuyết của ông vì họ không
nghĩ ADN chỉ đơn giản có 4 mẫu tự lại có chức năng làm vật liệu di
truyền, thay vào đó họ lại cho rằng protein mới chính là vật liệu di
truyền đích thực. Một phần thiếu sót và nhầm lẫn khác được người ta vin
vào là dựa trên ngôn từ trong di chúc do Alfred Bernhard Nobel để lại.
Ví dụ, Viện nghiên cứu y khoa Karolinska - nơi xét danh hiệu giải
Nobel Y học và Ủy ban Nobel lại dựa tiêu chí như discovery (khám phá hay
phát hiện) và “greatest benefit on mandkind” (lợi ích cao nhất cho nhân
loại) nêu trong di chúc nên cuối cùng đã không có một tiêu chí nào rõ
ràng. Đây là những định nghĩa rất khó áp dụng trong ngành y. Ví dụ, khoa
học lâm sàng thì từ “khám phá” “phát hiện” có thể hiểu thế nào cũng
được, chính điều này mà những người có phát minh lớn như Oswald Avery đã
bị bỏ qua, sau này khi cộng đồng khoa học kịp nhận ra ý tưởng của
Oswald thì ông đã qua đời mà theo quy định thì giải Nobel lại không thể
trao cho những người đã khuất. |