Tổ hợp S-400 Triumf gồm radar 92N6E2 “Grave Stone” và ống phóng 5P85TE2 tiêu chuẩn.
Tổ hợp tên lửa Almaz-Antey S-400 Triumf (được phía NATO định danh là
SA-21), là một phiên bản nâng cấp và hiện đại hóa mang tính cách mạng
của họ tên lửa phòng không (Surface to Air Missile-SAM) S-300 được phát
triển trước đây.
Dự án S-400 được khởi động từ những năm 1999 và được Bộ quốc phòng Liên
bang Nga tài trợ cho Tập đoàn công nghiệp quốc phòng Almaz-Antey nghiên
cứu và phát triển. Hiện nay, S-400 đang được đưa vào phục vụ trong Lực
lượng phòng không Liên bang Nga với một số lượng nhỏ, khoảng 20 khẩu đội
và 40 phương tiện phóng.
Khi dự án đang được phát triển và nghiên cứu thì nó mang tên S-300PMU3,
với những công nghệ được tích hợp mới nhất nhưng về sau được đổi tên
thành S-400. Theo một số báo đài thì đây là công nghệ PR cho hệ thống
của mình nhưng những thử nghiệm của S-400 lại không hề mang tính PR chút
nào. S-400 mang một công nghệ mới, những thiết bị mới nhất và những khả
năng siêu việt mà không một tổ hợp SAM nào có thể cạnh tranh với nó.
Hiện nay, theo một số nguồn tin không chính thức thì đã có một thương vụ
S-400 giữa Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA) và Nga, tuy
nhiên, chi tiết của thương vụ này không được tiết lộ với báo giới.
Sơ đồ làm việc và truyền tải thông tin theo thứ tự trong một khẩu đội S-400 Triumf.
Sự thay đổi khác biệt nhất so với người những người tiền nhiệm
S-300PMU-1 S-300PMU-2 và S-300PMU-2 Favorit là ở hệ thống radar hoàn
toàn mới, sử dụng công nghệ phần mềm điều khiển mới, cho phép kết hợp
các hệ thống và các phương tiện chiến tranh với nó. Nhưng S-400 vẫn sử
dụng loại đầu đạn chuẩn là 48N6E và 48N6E2 từng được sử dụng và phát huy
rất tốt trên các phiên bản S-300 trước đó.
Hệ thống radar 92N6E2 “Grave Stone”.
Điểm mới và nổi bật thứ 2 của S-400 là mỗi khẩu đội được trang bị hệ
thống phòng thủ tầm gần và cực gần để chống các phương tiện trên bộ và
các loại tên lửa hành trình tấn công nó. Đây là một thay đổi mới sáng
giá vì hầu như ở các phiên bản S-300 trước đó hoàn toàn bất lực trước bộ
binh và luôn phải có một nhóm bộ binh đi kèm nhằm bảo vệ nó trước các
mối nguy hiểm hiện hữu trên bộ.
Điểm thay đổi thứ 3 chính là hệ thống radar trang bị cho S-400 Triumf
của Lực lượng phòng không Liên bang Nga. Hệ thống radar 30N6E2 “Big
Bird” được sử dụng thay cho các hệ thống TOMB STONE hay loại radar gần
đây nhất được sử dụng cho S-300PMU-2 Favorit 92N6E “Grave Stone”.
Ống phóng 5P85TE2 trên khung gầm của xe chuyên dụng BAZ-64022.
Hệ thống radar này được đặt trên một phương tiện chuyên chở do hãng
Kamaz sản xuất, có tầm hoạt động cao và vận tốc di c huyển lên đến
70km/h khá cơ động và linh hoạt. Phiên bản 30N6E2 BIG BiRD được nâng cấp
và cải tiến đáng kể như hệ thống thám sát, kết hợp quang-điện mới, tăng
khẩu độ quan sát và khả năng hoạt động của nó. Tầm hoạt động của BiG
BIRD lên đến 380km, có thể theo dõi cùng lúc đến 500 mục tiêu và theo
sát 200 mục tiêu nguy hiểm nhất với nó. Điểm đặc biệt ở hệ thống radar
BIG BIRD mới là các khẩu đội dù ở cách xa nhau cũng có thể chia sẻ các
dữ liệu về đối phương, thông qua hệ thống SARK mới được phát triển trên
dòng radar BIG BIRD.
Các khẩu đội có thể cùng lúc tác chiến, tiêu diệt đồng loạt một phi đội
hay cùng lúc nhiều tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo chiến thuật tầm
xa. Bên cạnh đó, hệ thống radar phụ trợ đi kèm BIG BIRD là 97L6 có vai
trò như một phụ tá cho BIG BIRD và nó cũng là hệ thống nhằm tránh những
xung điện làm nhiễu hệ thống từ các mục tiêu. Hệ thống radar này cũng
được chuyên chở trên một hệ thống độc lập và có tầm hoạt động rất cao.
Một điểm nâng cấp đáng giá khác là hệ thống radar tái tạo hình ảnh 3D
của đối phương thông qua công nghệ quét pha chủ động phương ngang mới,
được tích hợp trực tiếp vào hệ thống radar BIG BIRD. Ngoài ra, với các
phiên bản xuất khẩu, các nước có thể chọn lựa giữa 2 hệ thống là BIG
BIRD hoặc GRAVE STONE. Tất nhiên, mỗi hệ thống có một điểm mạnh riêng.
BIG BIRD có hệ thống phần mềm mở và có thể kết hợp với nhiều loại phương
tiện chiến tranh khác.
BIG BIRD còn kết hợp được với radar của Ukraine loại Kochulga để tác
chiến trong mọi hoàn cảnh. GRAVE STONE thì rất kén các hệ thống tích hợp
và kết hợp chung với nó, hầu như chỉ sử dụng được các loại radar chỉ
định. Nhưng GRAVE STONE có một đặc điểm nổi trội là tầm quét và phủ sóng
cao hơn BIG BIRD khoảng 50km và có thể phát hiện, theo dõi bất kỳ mục
tiêu nào từ độ cao 65km trở xuống, nghĩa là hơn BIG BIRD 15km.
Các ống phóng của S-400 Triumf thuộc loại 5P85TE2 được nâng cấp khá toàn
diện từ mẫu 5P85TE2EM của S-300PMU-1 (Hệ thống hiện đang được Việt Nam
sử dụng) và hệ thống ống phóng 5P90S của S-300PMU-2 Favorit.
Hệ thống phóng này có nhiều ưu điểm kết hợp từ 2 người tiền nhiệm như
khả năng sử dụng đến 15 loại tên lửa với các đầu đạn khác nhau, từ loại
đầu đạn nặng 130kg (48N6N2) cho đến loại chỉ nặng 25kg (9M96E1/2). Tuy
nhiên, phiên bản S-400 Triumf dành cho Lực lượng phòng không Liên bang
Nga lại có khả năng mang được loại đầu đạn mới nhất mà chỉ có Lực lượng
này sử dụng là loại 40N6 với tầm hoạt động lên đến 400km, sử dụng hệ
thống BIG BIRD dẫn đường cơ cấu chủ động và theo hệ thống GLONASS. Tốc
độ của nó lên đến Mach 8.8 và có thể bắt gọn bất kỳ mục tiêu nào, kể cả
tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) ở giai đoạn cuối, đây là một trong
những loại tên lửa đánh chặn siêu việt nhất hiện nay với cơ cấu dẫn
đường kết hợp và có khả năng đánh chặn bất kỳ vật thể bay nào.
S-400 Triumf có khả năng ngụy trang tài tình với các môi trường khác nhau.
Giáo sư Alexander Lemanskiy cùng với các cộng sự của mình đã tham gia
phát triển hệ thống S-300PMU-2 là Igor Ashurbeili trong suốt 2 năm liền.
Sau sự thành công ngoài mong đợi của tổ hợp S-300PMU-2 Favorit, họ đã
tiếp tục nghiên cứu và cải tiến mới phiên bản S-300PMU-3 và hiện nay là
cái tên S-400. Giáo sư Lemanskiy đã có một buổi thuyết trình với Hội
đồng thẩm định Bộ quốc phòng Nga về các tính năng ưu việt của S-400
Triumf như sau:
- S-400 có khả năng phát hiện và hạ gục bất kỳ loại tên lửa tầm xa nào,
thậm chí là cả ICBM bay với bất kỳ cao độ nào, từ tầm trung cho đến tầm
thấp và cực thấp (dưới 5m) so với bề mặt.
- S-400 có khả năng đối phó với bất kỳ mục tiêu nào sử dụng công nghệ
tàng hình (STEALTH), Tuy nhiên nó không thể đánh bại được công nghệ
“Plasma Shield”, nhưng hiện tại chỉ có Nga sử hữu công nghệ “Plasma” tối
tân hiện đại này.
- Đối phó với các phi đội tiêm kích bay theo đội hình xen kẽ và có sự
tham gia của UAV nhằm đánh lừa radar về số lượng và kích cỡ của từng mục
tiêu.
- Có khả năng đối phó với bất kỳ phương tiện gây nhiễu nào nhờ hệ thống
phụ trợ 96L6 có khả năng vạch mặt bất kỳ phi đội nào có máy bay gây
nhiễu đi kèm. Công nghệ gây nhiễu là hoàn toàn vô dụng trước S-400
Triumf.
- Có khả năng ngụy trang rất tốt với môi trường xung quanh, bên cạnh đó
là khả năng vũ trang độc lập và không cần có nhóm đi kèm bảo vệ như các
phiên bản S-300 trước kia.
S-300 có một xe chỉ huy tổng đi kèm với các xe chở radar, hệ thống phụ
trợ và xe chở ống phóng. Nó thuộc loại 55K6E được nâng cấp và phát triển
từ 55K6EM sử dụng trong S-300PMU-2 Favorit nhằm kiểm soát toàn bộ quy
trình hoạt động của các radar thám sát, radar đẫn đường, radar phụ trợ
và các thông tin kỹ thuật của ống phóng.
Ngoài ra, đây là nơi hệ thống xử lý các thông tin về mục tiêu và các
thông tin về tên lửa, cũng như khoảng cách, cao độ của mục tiêu để tên
lửa làm việc chính xác nhất. Hệ thống này được thiết kế với hệ thống
phần mềm mở nhằm tương thích với cả 3 hệ thống là BIG BIRD, TOMB STONE
(S-300PMU-1) và GRAVE STONE (S-300PMU2) thậm chí còn tương thích được
với các hệ thống radar quét ra bị động dòng Kochulga từ phía Ukraine. Hệ
thống này cần 5 người để vận hành bao gồm 1 chỉ huy trưởng, 1 sĩ quan
kiểm soát, 2 sĩ quan kiểm soát hỏa lực và 1 sĩ quan cơ khí điện máy nhằm
xử lý hệ thống trong trường hợp có sự cố một cách kịp thời. |