Ngày 22/9/2010, Thủ tướng CP Nguyễn Tấn Dũng đã
chính thức phê duyệt "Đề án sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về ICT
(công nghệ thông tin & truyền thông)", trong đó nhấn mạnh mục tiêu,
đến năm 2020 Việt Nam cần 1 triệu nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp
CNTT.
Đề án này đã thu hút sự quan tâm rất lớn của cộng đồng CNTT trong
nước, đặc biệt các bậc cha mẹ đang có con theo học ngành ICT hết sức vui
mừng về tương lai của con em mình. Trong bài viết này, dưới góc nhìn
của người đang hành nghề dạy ICT lâu năm, xin trao đổi xoay quanh chủ đề
về con số 1 triệu nhân lực ICT và giải pháp thực hiện.
Thời của phát triển và...lạc hậu?
Thế kỷ 21, với sự phát triển nhanh chóng của ICT, khối lượng thông
tin và tri thức tăng rất nhanh. Chỉ trong vòng vài tháng, trong công
nghệ phần cứng của máy tính lại xuất hiện một công nghệ mới. Trong vòng
vài năm thì Microsoft lại xuất ra một phiên bản OS mới với nhiều tính
năng mới .v.v.
Đây là thời kỳ mà số lượng các công trình khoa học nhiều đến nỗi ông
thầy một số ngành ICT cũng không học hết nổi kiến thức một môn của mình
dạy.
Các thầy bậc đại học và đào tạo nghề ICT đứng trước nguy cơ... không
truyền bá hết nổi kiến thức của môn mình cho học trò. Hơn nữa khi các
thầy dạy kiến thức cho sinh viên trong trường, nhưng khi trò ra trường,
thì những kiến thức ở trường lại có thể trở thành lạc hậu.
Và các sinh viên tốt nghiệp phải đi đào tạo lại mới có thể hành nghề,
rất lãng phí công đào tạo. Làm thế nào để thoát ra khỏi bất cập này là
nội dung mà chúng tôi sẽ trình bày dưới đây.
|
Ảnh minh họa
|
Nhiều nghề mới và thủ tiêu... nghề cũ.
Vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước, có nhiều nghề không thể thiếu
trong hoạt động xã hội như: Đánh máy chữ, sửa chữa đồng hồ, làm điện báo
viên, trực tổng đài...Khi ICT phát triển, ai biết sử dụng máy tính cũng
có thể đánh văn bản được nên nghề đánh máy không còn trong danh mục
nghề công chức nữa.
Tương tự, khi mỗi người đều sở hữu điện thoại di động có đồng hồ hiển
thị thời gian thì nhu cầu sử dụng thêm đồng hồ lên giây đeo tay như
trước đây cũng không thật cần thiết nữa ...
15 năm trở lại đây, có thể coi là thời kỳ tăng trưởng của thị trường
viễn thông- tin học. Kỹ sư viễn thông với công việc cụ thể như thiết kế
mạng, lắp ráp thiết bị, bảo hành bảo trì, quản trị mạng...trở nên "hot"
và sáng giá hơn so với nhiều nghề khác.
Rất nhiều thanh niên ưu tú sau khi tốt nghiệp phổ thông đã "đầu quân,
gia nhập" ngành viễn thông. Tuy nhiên hiện nay (năm 2012) dịch vụ phần
cứng viễn thông đang có xu hướng bão hòa.
Các thiết bị di động thông minh ngày càng trở nên phổ biến thì nội
dung trao đổi trên mạng di động (công nghệ phần mềm) mới là yếu tố bùng
nổ các loại dịch vụ kinh doanh khác nhau như: Truyền hình di động,
game di động, thương mại điện tử, thanh toán di động...
Như vậy nhu cầu nguồn nhân lực viễn thông đang có sự thay đổi, chuyển
từ dịch vụ cung cấp thiết bị viễn thông phần cứng sang dịch vụ mới-
cung ứng phần mềm đa phương tiện cho khách hàng sử dụng.
Khi dữ liệu được lưu trữ và trao đổi trên mạng ngày càng lớn, thì nhu
cầu bảo mật thông tin trên mạng cũng ngày càng cao, tất yếu có một
ngành mới: An toàn thông tin trên mạng ra đời.
Các kỹ sư ngành ICT phải thích ứng với tốc độ phát triển công nghệ để
nhanh chóng phù hợp với nghề mới, công việc mới. Thậm chí ngay cả khi
các thầy hành nghề dạy học mà không cập nhật kiến thức mới là tự đào
thải mình.
Giảng viên dạy ICT nào mà kiêu ngạo tuyên bố: "Tôi là chuyên gia chỉ
một lĩnh vực" thì rất nhanh chóng...thất nghiệp khi môn học đó không
còn được đưa vào chương trình nữa.
Ví dụ về bức tranh ngành ICT trên cho thấy, chính tốc độ phát triển ICT đã làm thay đổi nhu cầu nguồn nhân lực ICT.
Nếu không có dự báo chiến lược phát triển công nghệ mới, không có
giải pháp đổi mới quy trình đào tạo ICT, thì kết quả đào tạo trong nhà
trường sẽ luôn chậm và đi sau bước phát triển công nghệ ICT trong thực
tế. Mọi thiệt thòi đó, suy cho cùng người học lãnh đủ.
Bức tranh đào tạo nghề ICT đang thay đổi
1- Xã hội kết nối và điện toán đám mây- xu thế công nghệ tương lai
Vào cuối năm 2010, thế giới đã có 500 triệu người truy cập băng rộng
di động. Dự kiến năm 2015 - 2016 sẽ có khoảng 5 tỉ người truy cập băng
rộng di động, tương đương với số lượng truy cập Internet sẽ gấp 5 lần
hiện giờ.
Quá trình chuyển đổi này sẽ tạo ra 50 tỉ kết nối với khái niệm
"Networked Society" (xã hội kết nối) vào năm 2020. Ba yếu tố ảnh hưởng
tới sự hình thành và phát triển của xã hội kết nối là: Di động, băng
rộng và điện toán đám mây (cloud computing). Trong 3 yếu tố hình thành xã hội kết nối thì điện toán đám mây là khâu then chốt mang tính đột phá.
Xã hội kết nối là bước phát triển kế tiếp của thời đại xã hội thông
tin hiện nay. Khi được kết nối một cách thông minh, cuộc sống của loài
người sẽ thay đổi, thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ hơn. Hãng Ericsson
nhận định tới năm 2015, 2/3 số thiết bị điện tử sẽ được gắn thêm thiết
bị kết nối di động. Ví dụ như máy phát điện, bàn là điện, bếp điện ...
như hình 1 dưới đây.
|
Hình 1. Mô hình các thiết bị kết nối
|
2- Điện toán đám mây trong xã hội kết nối và bài toán nguồn nhân lực ICT.
Theo tính toán của công ty NEO, nếu triển khai ứng dụng CNTT theo mô
hình truyền thống, tính trung bình mỗi đơn vị hành chính sự nghiệp tốn
khoảng 2.500 USD cho chi phí mua sắm phần cứng (máy chủ, thiết bị mạng),
2.500 USD chi phí mua sắm phần mềm, 500 USD mỗi tháng cho chi phí vận
hành (điện, đường truyền, thuê người quản trị mạng) và khoảng 250 USD
chi phí thuê hỗ trợ và nâng cấp phần mềm mỗi năm.
Trong khi đó, nếu các cơ quan Nhà nước ứng dụng công nghệ điện toán đám mây theo hình thức cung cấp phần mềm như dịch vụ (Software as service - SaaS).
Tức là phần mềm được tập trung tại một trung tâm dữ liệu để cho người
dùng sử dụng thông qua Internet, thì cơ quan Nhà nước sẽ không phải đầu
tư phần cứng, phần mềm hệ thống và phần mềm thương mại, giảm phần lớn
chi phí vận hành (điện, đường truyền và nhân lực quản trị hệ thống).
Như vậy triển khai ứng dụng điện toán đám mây sẽ tiết kiệm
kinh phí duy trì hệ thống mạng và điều quan trọng nhất, nhu cầu nguồn
nhân lực ICT nói chung và nguồn nhân lực chuyên viên quản trị mạng hệ
thống sẽ giảm.
Đây là bài toán đặt ra cho những nhà quản lý trong định hướng đào tạo
nghề ICT trong tương lai và con số 1 triệu nhân lực ICT vào năm 2020
cần phải xem xét một cách khoa học.
Đào tạo nghề ICT trong xã hội kết nối.
Đào tạo nghề ICT phải hướng tới người lao động tri thức
Ngày nay, hầu hết các công việc như cài đặt, cấu hình và bảo trì được
thực hiện một cách tự động, nên các kỹ năng cần thiết cho người lao
động ICT sẽ thay đổi chuyển từ các công việc mang tính kĩ thuật trước
đây sang đòi hỏi những kiến thức về trải nghiệm và những kỹ năng phù hợp
khác.
Sự phát triển này đi cùng với sự chấp nhận nhanh chóng của điện toán đám mây
trên toàn cầu, sẽ đòi hỏi phải gia tăng rất mạnh số lao động hiểu biết
về lĩnh vực này. Tức là nhu cầu nhân lực lao động kỹ thuật khai thác ICT
sẽ giảm nhường chỗ cho nguồn nhân lực là những lao động tri thức có
những kỹ năng mới.
Thay đổi nội dung và phương pháp đào tạo nghề một cách khoa học.
Nếu trước đây việc tích lũy kiến thức (nhớ) là ưu tiên số 1 thì giờ
đây khi mà các phương tiện lưu trữ đã đầy đủ, sẵn sàng cho việc truy
cập và xử lí thông tin, thì ưu tiên số 1 lại là khả năng nhanh chóng
tiếp cận tri thức mới, vận dụng tri thức mới và khả năng ...sinh ra tri
thức mới.
Nhu cầu nhân lực lao động kỹ thuật khai thác ICT sẽ giảm
nhường chỗ cho nguồn nhân lực là những lao động tri thức có những kỹ
năng mới.
|
Trong tình hình đó, cách đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề bậc
ĐH nói riêng không thể giữ nguyên như khoảng nửa thế kỷ trước đây. Nếu
trước kia người ta có thể sử dụng thời gian 4, 5 năm ĐH trang bị vốn tri
thức về 1 nghề nghiệp cao cấp nào đó cho 1 sinh viên, để anh ta sử dụng
hầu như trong cả cuộc đời hành nghề của mình, thì ngày nay điều đó là
hoang tưởng.
Nghĩa là nếu vẫn tập trung vào mục tiêu trang bị tri thức, thì dù có
kéo dài bao nhiêu lần thời gian học ở ĐH cũng không giải quyết được mâu
thuẫn đã nêu. Do đó nội dung chương trình đào tạo nghề phải chú trọng
loại kiến thức nền tảng chứ không phải loại kiến thức về 1 quy trình cụ
thể.
Vì kiến thức nền tảng mới tạo cho người học 1 cái nền vững chắc để
tiếp tục học tập những thứ cụ thể khác. Tiếp đến là đào tạo kỹ năng phù
hợp với xã hội kết nối, phù hợp với ngành nghề mà người lao động lựa
chọn.
Đổi mới phương thức đào tạo nghề ICT
Theo mô hình đào tạo truyền thống thì nguồn cung ứng nhân lực nói
chung, nguồn nhân lực ICT nói riêng chủ yếu đến từ các trường đào tạo
nghề hoặc các trường ĐH và bao gồm các bậc học phổ biến như: Trung học
nghề, cao đẳng...
Tuy nhiên, đặc thù của ngành nghề trong xã hội kết nối có liên quan
mật thiết với nhau. Nhiệm vụ của ngành ICT là phục vụ cho rất nhiều các
lĩnh vực khác nhau. Do đó người lao động phải có nhiều kỹ năng khác mà
nhà trường ICT khó có thể đào tạo được, nên việc đào tạo bổ sung là rất
cần thiết trong mô hình mới.
Ở đây cần phân biệt đào tạo lại và đào tạo bổ sung.
Đào tạo lại là trường hợp đã được học nghề ở trường nhưng khi ra làm
việc không đáp ứng được công việc phải đi đào tạo lại. Có khi phải học
ngành mới không liên quan với kiến thức đã học ở trường.
Còn đào tạo bổ sung là trường hợp sinh viên được đào tạo cơ bản ở
trường, sau đó đến làm việc ở lĩnh vực hẹp nào thì được đào tạo bổ sung
kiến thức phù hợp công việc ở đó. Đào tạo bổ sung là tất yếu phù hợp với
chuyên ngành ICT, còn đào tạo lại là 1 sự lãng phí.
|
Hình 2. So sánh đào tạo nghề truyền thống và xu hướng đào tạo mới
|
Trên hình 2, mũi tên từ trái sang phải có nghĩa là sau khi đào tạo
truyền thống theo các trình độ khác nhau : Kỹ thuật viên, cử nhân, thạc
sĩ, tiến sĩ...người học mới có nghề để đi làm. Mũi tên từ phải sang
trái có nghĩa là người lao động đã có nghề nghiệp ổn định vẫn được
thường xuyên được đào tạo bổ sung .
Trong mô hình mới này, người lao động được đào tạo những kiến thức cơ
bản về nghề và liên quan thông qua các chương trình đào tạo chính thức.
Và sau khi đi làm nếu cần thêm kiến thức gì, thì đi học bồi dưỡng bổ
sung thông qua các chương trình đào tạo thường xuyên ngắn hạn như ngôn
ngữ lập trình, công nghệ mới...
Trong trường hợp đào tạo thường xuyên (hình 2) người thầy phải luôn
cập nhật kiến thức thực tế mới đảm nhận vài trò "làm thầy thiên hạ"
được.
Theo mô hình đào tạo này, trong trường đào tạo nghề không nhất thiết
phải đào tạo tất cả những gì xã hội cần, mà nên lựa chọn những môn học
thật cần thiết để làm nền tảng cho người học có thể phát triển kỹ
năng làm việc trong tương lai.
Một số giải pháp cụ thể
Từ thực trạng nghề ICT trong bối cảnh mới, trên cơ sở phân tích luận
điểm khoa học đã trình bày, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp
cụ thể sau :
1) Rút ngắn thời gian đào tạo ĐH từ 4-5 năm xuống 3-3,5 năm. Nội dung
đào tạo trong trường như nội dung đã nói phần trên. Tăng cường vai trò
đào tạo bổ sung phù hợp công việc thực tế.
2) Nâng cấp các trường cao đẳng đào tạo nghề ICT thành trường ĐH thực
hành ICT. Vì thực chất lao động trong nghề ICT là lao động tri thức có
kỹ năng mới, khác với lao động thuần tuý kỹ thuật trước đây. Giải pháp
này sẽ kích thích thu hút nhiều thanh niên gia nhập vào lĩnh vực nghề
ICT.
3) Nâng cấp vị thế giảng viên đào tạo nghề ICT. Người thầy trong lĩnh
vực này ngoài việc phải được nâng cấp trình độ của mình qua mô hình
đào tạo truyền thống (theo hình 2 từ trái sang phải) để đạt được các học
vị thạc sĩ, tiến sĩ còn phải biết tự đào tạo bổ sung kiến thức cho
chính mình.