(phatminh.com) Đây là nhiệm vụ được xác định trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (BĐKH) do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố sáng 7/3 tại Hà Nội. Cùng với Chiến lược này, kịch bản về BĐKH và nước biển dâng cập nhật mới nhất của năm 2012 cũng được giới thiệu.
|
|
Theo Chiến
lược quốc gia về biến đổi khí hậu đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt,
Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến
đổi khí hậu, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long là một trong 3 đồng bằng
trên thế giới dễ bị tổn thương nhất do nước biển dâng (bên cạnh đồng
bằng sông Nile – Ai Cập và đồng bằng sông Ganges – Bangladesh). Do đó,
hai mục tiêu chung đã được xác định trong Chiến lược là phát huy năng
lực của toàn đất nước, tiến hành đồng thời các giải pháp thích ứng với
tác động của BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, đảm bảo an toàn
tính mạng người dân và tài sản, nhằm mục tiêu pháp triển bền vững. Đồng
thời, tăng cường năng lực thích ứng với BĐKH của con người và các hệ
thống tự nhiên, phát triển nền kinh tế carbon thấp nhằm bảo vệ và nâng
cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc
gia trong bối cảnh BĐKH toàn cầu và tích cực cùng cộng đồng quốc tế bảo
vệ hệ thống khí hậu trái đất.
Thứ trưởng bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trình bày Chiến lược quốc gia về BĐKH. (Ảnh: BN)
Chiến lược cũng xác định bốn mục tiêu và các nhiệm vụ cụ thể. Theo đó,
đến năm 2015, Việt Nam sẽ hoàn thành việc xây dựng hệ thống giám sát
biến đổi khí hậu và nước biển dâng; đến năm 2020, hệ thống quan trắc, dự
báo khí tượng thủy văn và cảnh báo hiện tượng khí hậu cực đoan đạt mức
tiên tiến trên thế giới. Cũng thời điểm năm 2020, tỷ lệ đất có rừng được
nâng lên 45% song song với việc nâng cao chất lượng rừng, tăng cường
bảo vệ, quản lý và phát triển rừng ngập mặn, các hệ sinh thái đất ngập
nước… Về sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, đến năm 2015 hoàn thành
việc rà soát và ban hành kế hoạch loại bỏ dần các công nghệ kém hiệu
quả; ban hành hệ thống định giá năng lượng mới.
Tại lễ công bố Chiến lược quốc gia, PGS.TS Trần Thục, Viện Khí tượng
thủy văn và môi trường cũng trình bày “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước
biển dâng cho Việt Nam” được cập nhật năm 2012. Theo đó, kịch bản nước
biển dâng được xây dựng cho 7 khu vực ven biển; các bản đồ nguy cơ ngập
cho vùng đồng bằng sông Cửu Long và thành phố Hồ Chí Minh có tỷ lệ
1:5.000; các bản đồ nguy cơ ngập cho đồng bằng sông Hồng, Quảng Ninh và
các tỉnh ven biển có tỷ lệ 1:10.000 (mức chi tiết tương đương đến cấp
huyện).
Do tác động của BĐKH, hiện tượng nước biển dâng cao sẽ ngày càng trầm trọng.
Kịch bản cũng xây dựng theo 3 mức (thấp, trung bình, cao). Do đó, nếu
theo kịch bản phát thải trung bình: Đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung
bình năm tăng 2-3°C trên phần lớn diện tích cả nước, riêng khu vực từ Hà
Tĩnh đến Quảng Trị có nhiệt độ trung bình tăng nhanh hơn so với những
nơi khác. Nhiệt độ thấp nhất trung bình tăng 2,2 - 3,0°C; nhiệt độ cao
nhất trung bình tăng 2,0 - 3,2°C. Số ngày có nhiệt độ cao nhất trên 35°C
tăng từ 15 đến 30 ngày trên phần lớn diện tích cả nước. Lượng mưa năm
tăng trên hầu hết lãnh thổ. Mức tăng phổ biến từ 2-7%. Xu thế chung là
lượng mưa mùa khô giảm và lượng mưa mùa mưa tăng. Lượng mưa ngày lớn
nhất tăng ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và giảm ở Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Nam
bộ. Trung bình toàn dải ven biển Việt Nam, mực nước biển dâng trong
khoảng từ 57-73cm, khu vực từ Cà Mau đến Kiên Giang là nơi có mực nước
biển tăng nhiều hơn so với các khu vực khác.
PGS.TS Trần Thục cho biết, theo kế hoạch, Ban Liên Chính phủ về biến
đổi khí hậu sẽ công bố kịch bản BĐKH toàn cầu và khu vực trong Báo cáo
đánh giá lần thứ 5 vào cuối năm 2014. Do đó theo kế hoạch thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH, kịch bản sẽ tiếp tục
được cập nhật vào năm 2015.
Từ
kết quả tính toán, nếu mực nước biển dâng 1m, sẽ có khoảng 39% diện
tích đồng bằng sông Cửu Long, trên 10% diện tích vùng đồng bằng sông
Hồng và Quảng Ninh, trên 2,5% diện tích thuộc các tỉnh ven biển miền
Trung và trên 20% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh có nguy cơ bị ngập;
Gần 35% dân số thuộc các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên 9% dân
số vùng đồng bằng sông Hồng, Quảng Ninh, gần 9% dân số các tỉnh ven biển
miền Trung và khoảng 7% dân số Thành phố Hồ Chí Minh bị ảnh hưởng trực
tiếp; Trên 4% hệ thống đường sắt, trên 9% hệ thống quốc lộ và khoảng 12%
hệ thống tỉnh lộ của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. |
|
|
|
|
|
|