Vào đầu thế kỷ XX người
ta khám phá ra ADN như một chất sinh hóa mang thông tin di truyền.
(support biochimique de l'information génétique) và làm sáng tỏ cấu
trúc ADN.
Những năm 70 ngành
sinh hóa phân tử bùng nổ (Biologie Moléculaire) .
Và bình minh của thế kỷ
XXI gia tài di truyền của con người được giải mã
1) Sự xuất hiện ngành
di truyền học
Ngành di truyền học
hiện đại này có từ các công trình của Mendel , người đầu tiên thực hiện
các lý thuyết về di truyền. Ông in ra các kết quả năm 1866, nhưng lúc
bấy giờ ít được chú ý. Cho đến năm 1900 thì người ta mới nghiên cúu và
khám phá trở lại
2) Nhiễm sắc thể, chât
mang di truyềnCấu trúc nhiễm sắc thể
Nhờ những công trình
của Thomas Morgan (1866-1945) trên ruồi drosophile đã dẫn đến sự phát
triển của thuyết nhiễm sắc thể về tính di truyền. Các gene nằm trong
nhiễm sắc thể và theo Sturtevant thì các gene có thể có một trật tự
trong nhiễm sắc thể, và thành lập các giq"n đồ gene đầu tiên. Cũng
trong phòng thí nghiệm của Morgan mà các các thủ tục về thí nghiệm biến
đổi gene (procédures de mutagenèse expérimentales) được Muller phát triển.
3) Sự hội tụ của ngành
sinh hóa và di truyền
Lúc bấy giờ người ta
biết sự hiện diện các gene trong nhiễm sắc thể nhưng chưa biết tính chất
sinh hóa các gene hay cách hành động của chúng.
Garrod thiết lập sự
liên hệ đầu tiên giữa gene và enzym từ sự quan sát căn bệnh di truyền.
Beadle và Tatum đào sâu
liên hệ này nhờ một hệ thống dẫn tới thực nghiệm: nấm Neurospora
crassa.
Tổng hợp các công trình
này đưa đến một kết luận là các gene kiểm soát sự tổng hợp các enzym,
và mỗi protein được mã hóa (codé) bởi một loại gene riêng biệt.
4) ADN chất sinh hóa
mang thông tin di truyền
Năm 1928: Hiện tượng
đầu tiên cho phép phát triển về sự nhận diện chất di truyền là sự biến
đổi vi khuẩn do Griffith, người Anh tìm ra.
Hiện tượng này lúc bấy
giờ được xem là một thử nghiệm về hoạt động sinh học (activité
biologique) mà nhờ đó người ta có thể xác định được bản chất của chất
di truyền (matériel génétique}. Thử nghiệm này lại được Avery dùng để
làm sáng tỏ bản chất sinh hóa của matériel génétique: đó là ADN. Tuy
nhiên sự khám phá này cũng được đón chào bởi nhiều người hoài nghi.
Phải đợi có nhiều công trình khác kế tiếp mà thực tế này mới được chấp
nhận: đặc biệt là công trình của Chargaff hay Hershey.
Sự chấp nhận toàn toàn
và vĩnh viễn có được khi Watson và Crick
làm sáng tỏ của cấu trúc ADN
5) Ảnh hưởng của các
nhà vật lý học
Ảnh huởng các nhà vật
lý học sẽ đánh dấu ngành génétique phân tử. Có những người, như
Schrödinger đóng vai trò như một nhà quan sát. Những người khác cống
hiến tất cả sự nghiệp của họ cho ngành này vì họ nhận biết rằng khoa
học này là một biên giới (lãnh vực) mới của sự hiểu biết khoa học.
Pauling và Delbrück
đóng một vai trò xác định sự tiến triển của khoa học này.
Delbrück đặc biệt là
người sáng lập ra nhóm phage (groupe du phage) với Luria và Hershey
6) Cấu trúc ADN
Liên kết ADN theo cấu trúc hóa học
Cuối cùng, đó là nhờ sự
sáng tỏ của cấu trúc ADN mà ngành sinh hóa phân tử biết thành công rực
rỡ. Sự thành công này không những là công trình của Watson và Crick; mà
cũng là của các nhà nghiên cứu Franklin và Wilkins |