|
William Harvey (1578-1657) |
|
|
Học trò của Fabri là William Harvey (1578 - 1657) một người Anh rất kiên quyết, sau khi về nước Anh, Harvey cũng như một số nhà giải phẩu học trước ông lao vào nghiên cứu về tim và chú ý đến sự có mặt của những van hoạt động một chiều ở trong tim . |
|
Các nhà giải phẩu học người Ý ở thế kỷ XVI, Jerom Fabri (1537- 1619) đã
phát hiện ra van tĩnh mạch và giải thích sự hoạt động của các van này
không ngăn trở máu chảy về tim và chảy ngược trở lại. Tuy nhiên, kết
luận đó trái với ý kiến của của Galen về máu chuyển động theo hai chiều,
vì vậy Fabri chỉ dám giả thiết là các van làm máu chảy chậm lại, chứ
hoàn toàn không làm ngừng dòng máu chảy ngược. Kết luận đơn giản hơn,
máu chảy trong tĩnh mạch chỉ theo một hướng về tim.
Học trò của Fabri là William Harvey (1578 - 1657) một người Anh rất
kiên quyết, sau khi về nước Anh, Harvey cũng như một số nhà giải phẩu
học trước ông lao vào nghiên cứu về tim và chú ý đến sự có mặt của
những van hoạt động một chiều ở trong tim . Sơ lược về tiểu sử của Harvey
Ngày 1 tháng 4 năm 1578, W. Harvey sinh ra trong một gia đình nông dân ở
Folkestone, miền Nam nước Anh. Về sau, Harvey còn có 6 em ruột nữa.
Lúc nhỏ, Harvey đã yêu thích các loài động vật, thường cả ngày đùa
nghịch với chó, mèo, gà, thỏ mà không biết chán. Ở gần nhà có một xưởng
mổ gia súc. Có dịp là Harvey tới xem các chú bác giết thịt rồi chặt
thành từng tảng thịt bò, thịt dê, thịt heo... chuyển đi các cửa hàng
bán lẻ. Nhìn thấy cảnh máu me chảy ròng ròng, bạn bè sợ hết hồn, chạy
té đi, song Harvey lại chẳng sợ chút nào, lại còn hỏi xem bộ phận này,
bộ phận khác trong nội tạng gia súc gọi tên là gì... Năm
1593, chưa đầy 16 tuổi Harvey đã thi đổ trường đại họ(Cambridge), học
văn học. Năm 19 tuổi, Harvey đã tốt nghiệp, đoạt được học vị cử nhân
văn học, rồi sau đó lại chuyển tới học y học ở trường đại học Padua,
Italia, là một trung tâm nghiên cứu y học đương thời. Năm
1600, vào lúc Harvey 22 tuổi, đang học đại học Padua, thì có xảy ra một
việc động trời: Ngày 17 tháng 2, nhà khoa học ngoan cường Brunô, người
chủ trương và truyền bá Thuyết nhật tâm, bị giáo hội qui tội chết, đem
thiêu trên giàn lửa! Harvey rất căm phẫn trước việc đó, trong lòng như
muốn thét lên câu hỏi: thế này thì còn gì là chân lý nữa?!
Năm 1602 Harvey tốt nghiệp đại học, đoạt danh vị bác sĩ y khoa, không
lâu sau, Harvey trở về nước Anh, lại đoạt học vị bác sĩ giải phẩu học ở
trường đại học Cambridge, trở thành một thầy thuốc có danh tiếng.
Từ năm 29 tuổi, ông dạy học ở trường Y Hoàng Gia, kiêm bác sĩ phẩu
thuật ở bệnh viện Saint Bactholomew. Năm 35 tuổi, ông là giáo sư trường
đại học Y ở London. Năm 40 tuổi ông được mời làm ngự y của vua nước
Anh là James I, rồi Charler. Công trình khoa học của Harvey
Ở London, mỗi năm Harvey đều tham gia mấy lần giải phẩu xác phạm nhân
tử hình. Trong quá trình giải phẩu, ông chú ý thấy sự co bóp của động
mạch, hiện tượng phập phồng ở thái dương, cổ tay, đỉnh đầu... những hiện
tượng đó làm cho ông nghĩ đến giả thuyết cho là trong cơ thể có sự
hoạt động của một thứ gì tựa như cái bơm trung tâm, từ đó mà khống chế
sự lưu động của máu trong toàn thân thể. Harvey lúc đó còn là
giảng viên giải phẩu. Khi giảng bài, ông thường giải phẩu ộng vật rồi
cùng sinh viên quan sát, nghiên cứu. Mỗi cuộc giải phẩu, ông đều ghi
chép tỉ mỉ các quan sát, rồi lại suy ngẫm tìm cách giải thích các vấn
đề thu lượm được. Khi giải phẩu động vật và xác người, ông đặc biệt chú
ý quan sát kỹ lưỡng về kết quả cấu quả tim, biết rằng tim là do các cơ
thịt tổ chức thành và công năng chủ yếu của nó là vận động co bóp. Ông
nhận ra giữa mỗi nữa quả tim đều có van tim ngăn cách, làm phân chia
ra tâm nhĩ và tâm thất, chỉ cho máu chảy từ tâm nhĩ sang tâm thất, mà
không thể chảy ngược lại. Harvey tính toán rằng chỉ trong một
giờ, tim bơm đầy được một khối lượng máu gấp ba lần trọng lượng của cơ
thể. Không thể tưởng tượng được rằng với tốc độ đó máu có thể tự tạo ra
hoặc tự phân giải. Rõ ràng máu phải từ động mạch sang tĩnh mạch ở chỗ
nào đó bên ngoài tim mà mắt thường ta không nhìn thấy được những mạch
nhỏ nối tiếp. Sau khi giả thiết có những mạch nối tồn tại thì rất dễ
hiểu là tim phải nhiều lần bơm một khối lượng máu qua các nấc: Tĩnh
mạch--tim--động mạch--tĩnh mạch--tim--động mạch--tĩnh mạch--tim....
Năm 1628, một nhà xuất bản ở nước Ý chủ động viết thư cho Harvey trình
bày nguyện vọng là chịu mọi phí tổn, xin xuất bản cuốn sách: Về sự hoạt
động của máu và tim ở động vật mà Harvey đã phải bỏ ra tâm huyết hơn
20 năm để hoàn thành. Mặc dù cuốn sách không dày ( vẻn vẹn chỉ có 72
trang ) và vẻ bề ngoài khiêm tốn, nhưng cuốn sách đã mở ra một thời kỳ
mưa bão - làm nên cuộc cách mạng hoàn toàn trong lịch sử sinh học.
Nghiên cứu của Harvey là sự thể hiện ý đồ nghiêm chỉnh đầu tiên về quan
điểm mới đối với sinh học. Harvey đã đánh đổ học thuyết của Galen, và
đặt nền tảng cho sinh lý học hiện đại ( chúng ta lưu ý sự tính toán của
Harvey về khối lượng máu đi qua tim là ý định nghiêm chỉnh đầu tiên
nhằm ứng dụng toán học vào sinh học). Lẽ tất nhiên, các thầy
thuốc là những người gắn bó với trường phái cũ đã công khai chống lại
Harvey nhưng họ không thể chống lại những sự thật khách quan . Ðến thời
gian khi Harvey trở về già thì tuần hoàn máu của ông mới được giới các
nhà sinh học thừa nhận chúng mặc dù người ta chưa phát hiện được mao
quản nối liền động mạch với tĩnh mạch. Như vậy, các nhà bác học châu Âu
đã dứt khoát vượt qua giới hạn sinh học cổ điển và không bao giờ quay
trở lại nữa. Không còn nghi ngờ gì nữa, phát minh của Harvey
là dẫn chứng có ích cho chủ nghĩa duy vật máy móc. Thật ra có thể cho
rằng tim là một loại máy bơm, còn sự vận chuyển của máu tuân theo những
định lý học về chuyển động của chất lỏng. Nếu như vậy thì giới hạn của
vấn đề là ở đâu? Phải chăng người ta có thể giả thiết là tất cả những
phần còn lại trong cơ thể sống chỉ là một bộ tập hợp của các hệ thống
cơ học phức tạp và có liên quan lẫn nhau hay không? Ðiểm yếu
nhất trong lý thuyết tuần hoàn máu cuả Harvey là không thấy được mối
liên quan giữa động mạch và tĩnh mạch. Ông chỉ giả thiết có sự nối tiếp
tương tự, nhưng do kích thước của các mao quản nối với nhau rất nhỏ
nên không thể nhìn thấy được. Vào cuối đời của Harvey vấn đề này vẫn
chưa được giải qưyết, và có lẽ nó vẫn tiếp tục tồn tại nếu như loài
người chỉ dùng mắt thường để quan sát sự vật. |
|
|
|
|
|
|