Kính hiển vi quang học là dạng kính hiển vi đơn giản, lâu đời nhất và cũng là phổ biến nhất. Các kính hiển vi quang học cũ thường phải quan sát hình ảnh trực tiếp bằng mắt nhìn qua thị kính, nhưng các kính hiện đại hiện nay còn được gắn thêm các CCD camera hoặc các phim ảnh quang học để chụp ảnh
Bằng chứng lịch sử ban đầu liên quan đến sự ra đời của kính
hiển vi quang học là công bố về khả năng phóng đại các vật thể bằng các kính
phóng đại trong cuốn Books of Optics vào năm 1021 bởi Ibn al-Haytham (Alhazen).
Sau khi cuốn sách này được xuất bản, Roger Bacon ở Anh quốc đã lý giải và mô tả
cơ chế của việc phóng đại này vào thế kỷ 13, và dẫn đến sự phát triển của kính
lúp phóng đại ở Italia.
Những kính hiển vi ban đầu được phát minh vào năm 1590 ở
Middelburg, Hà Lan . Ba người thợ tạo kính là Hans Lippershey (người đã phát
triển các kính viễn vọng trước đó), Zacharias Janssen, cùng với cha của họ là
Hans Janssen là những người đầu tiên xây dựng nên những kính hiển vi sơ khai.
Năm 1625, Giovanni Faber là người xây dựng một kính hiển vi hoàn chỉnh đặt tên
là Galileo Galilei .
Các cấu trúc của kính hiển vi quang học tiếp tục được phát
triển tiếp theo đó, và kính hiển vi chỉ được sử dụng một cách phổ biến hơn ở
Italia, Anh quốc, Hà Lan vào những năm 1660, 1670. Marcelo Malpighi ở Italia bắt
đầu sử dụng kính hiển vi để nghiên cứu cấu trúc sinh học ở phổi. Đóng góp lớn
nhất thuộc về nhà phát minh người Hà Lan Antoni van Leeuwenhoek, người đã phát
triển kính hiển vi để tìm ra tế bào hồng cầu và tinh trùng và đã công bố các
phát hiện này .
|