Sao Thủy (chấm đen) quá nhỏ và nằm rất gần mặt trời.
Môi trường cực kỳ khắc nghiệt và bề mặt
cằn cỗi trên Sao Thủy khác xa so với Trái Đất. Ngoại trừ 3 lần tiếp cận
của tàu Mariner 10 vào năm 1974 và 1975, không một vệ tinh nào khác của
NASA sống sót mà gửi tín hiệu về nhà. Cho đến tận tháng 3 năm nay, tàu
thăm dò Messenger của NASA khởi hành vào năm 2004 đã tiếp cận được quỹ
đạo của sao Thủy và bắt đầu khảo sát hành tinh này trong vòng ít nhất 1
năm. Tuần vừa qua, những thông tin mới nhất về sao Thủy được đăng trên
báo Science và giúp con người hiểu sâu hơn về thế giới bí ẩn trên sao Thủy.
So sánh kích thước Trái Đất, Sao Thủy và mặt trăng.
Tuy nhìn bề ngoài Sao Thủy có vẻ giống
với mặt trăng, nhưng môi trường trên bề mặt lại rất khắc nghiệt. Tác
động cực lớn của lực hấp dẫn mặt trời khiến cho Sao Thủy tự quay cực
chậm. Theo báo cáo mới nhất thì trong thời gian quay 1 vòng quanh mặt
trời, Sao Thủy chỉ quay xung quanh nó 3 vòng. Bề mặt hướng về mặt trời
của hành tinh này có nhiệt độ lên đến 510°C, trong khi mặt sau lại âm
210°C. Phần lõi của nó cũng rất đặc biệt, bằng kim loại và có đường kính
lớn hơn cả bán kính chính nó. Trong khi lõi của Trái Đất chỉ chiếm 9,5%
đường kính.
Lõi của Sao Thủy cực lớn so với chính hành tinh này.
Kết cấu đặc biệt của Sao Thủy có thể
được giải thích như sau: trước đây nó cũng lớn tương đương Sao Kim hay
Trái Đất, nhưng vì khoảng cách quá gần nên nó đã bị mặt trời dần dần
thổi bay các lớp bề mặt. Hoặc cũng có một giả thuyết khác, những vụ va
chạm với các thiên thạch đã khiến cho bề mặt của Sao Thủy bị hao mòn rất
nhiều. Tuy nhiên báo Science mới đây đã gợi mở những giả thuyết mới.
Việc khảo sát Sao Thủy của tàu Messenger bao gồm sử dụng máy đo tia
gamma và tia X quang để phân tích chất liệu bề mặt của nó. Nguyên tố chủ
yếu mà các nhà khoa học đang tìm kiếm là potassium và thorium. Cả 2
nguyên tố này đều rất dồi dào trong hệ mặt trời, tuy nhiên chúng cũng
rất dễ bay hơi và chỉ có thể tồn tại trong một số điều kiện nhất định.
Nhiệt độ chính là một trong những yếu tố khiến potassium và thorium dễ
bay hơi nhất.
Cả 2 giả thuyết bị sức nóng và thiên thạch bào mòn đều dựa trên dự đoán
từ trước kia cho rằng Sao Thủy có nhiệt độ bề mặt lên tới 3.200°C. Tại
nhiệt độ này, potassium và thorium đều bốc hơi, uranium cũng bị thiêu
hủy, kết hợp với khí oxy để tại ra UO3. Nhưng tàu Messenger
phủ nhận điều này. Tỉ lệ các nguyên tố trên của Sao Thủy đều rất giống
với hầu hết các hành tinh khác như Sao Kim, Trái Đất và đặc biệt là Sao
Hỏa.
Những nguyên tố dễ bay hơi này bị tách ra khỏi về mặt và giúp các nhà
khoa học đi đến một giả thuyết khác: sự phân tán nguyên tố khiến cho bề
mặt Sao Thủy bị bào mòn. Các nhà khoa học đã nghiên cứu dữ liệu từ các
tia gamma và tia X, họ cho rằng sự bào mòn bề mặt này xuất phát
từ việc các núi lửa phun trào những vật chất dễ bay hơi lên bề mặt. Theo
thời gian chúng bốc hơi và tạo ra những cái hố cực lớn mà vệ tinh có
thể quan sát từ ngoài vũ trụ.
Bề mặt Sao Thủy có rất nhiều hố và núi lửa lớn.
“Điều này hỗ trợ cho giả thuyết Sao
Thủy có chứa một lượng chất dễ bay hơi rất dồi dào, và bác bỏ những giả
thuyết khác về sự hình thành của nó”. Nói cách khác, giả thuyết va chạm với các thiên thạch và bị sức nóng thiêu đốt bề mặt là không khả dĩ.
Một bài báo khác của Science cũng đã tiết lộ thêm những thông
tin mới: Sao Thủy có từ trường giống với Trái Đất, nhưng yếu hơn, và cực
từ của nó lệch 3 độ so với trục địa lý. Nó cũng có đủ hạt mang điện
tích để tự quay, nhưng từ trường của nó không đủ mạnh để tạo ra hiện
tượng giống như vòng đai Van Allen của Trái Đất. Bán cầu bắc của Sao
Thủy được hình thành nhờ các núi lửa, chứng tỏ hoạt động địa lý tại hành
tinh này mạnh hơn chúng ta tưởng.
Những phát hiện mới này đang khiến cho các nghiên cứu rất háo hức, đặc
biệt là việc giải đố quá trình hình thành nên Sao Thủy. Vẫn cần có thêm
những thông tin từ tàu Messenger để chúng ta đi đến được kết luận cuối
cùng. Tất cả đều vẫn chỉ nằm ở mức giả thuyết, và nếu chúng đều sai thì
chúng ta phải tìm ra được một giả thuyết dự phòng.
Đó là một trường hợp thường xuyên xuất hiện trong khoa học, một lý luận
cũ sụp đổ nhưng chưa chắc đã có một lý luận mới có thể thay thế được nó.
Điều này không có nghĩa chúng ta thất bại, chỉ là 1 bước tiến mới trong
việc tìm đến tri thức mà thôi.