Các loại tàu chiến
hiện đại đều được thiết kế ứng dụng những công nghệ hiện đại làm giảm
dấu hiệu radar; giảm dấu hiệu hồng ngoại cũng như âm thanh… nhằm làm cho
tàu “vô hình” trước các hệ thống phát hiện của đối phương đồng thời
nâng cao tính sống còn cho tàu chiến.
Giảm dấu hiệu radar và hồng ngoại
Để nâng cao hiệu quả “tàng hình” trước radar, trong thiết kế tàu chiến,
việc làm giảm tiết diện phản xạ radar (RCS) là yêu cầu rất quan trọng.
Kích thước, hình dáng, vật liệu đóng tàu… là những yếu tố chính có ảnh
hưởng đến RCS.
Theo đó, tàng hình radar bao gồm các kỹ thuật cơ bản: Dùng vật liệu đóng
tàu có hệ số phản xạ càng thấp càng tốt (sử dụng các vật liệu như nhựa,
sợi thủy tinh…). Phủ lên vỏ tàu vật liệu có khả năng hấp thụ radar (ví
dụ như các loại sơn hoặc tấm phủ đặc biệt để biến sóng radar thành nhiệt
năng). Phủ lên các cửa sổ của tàu một lớp mỏng trong suốt có tính dẫn.
Các lớp phủ này có thể làm lệch hướng tín hiệu radar chiếu tới… Nhiều
loại nhựa hấp thụ radar, các loại vật liệu dựa trên các-bon và gốm đã
được quân đội nhiều nước phát triển. Việc kết hợp những vật liệu này với
hình dáng giảm dấu hiệu radar góp phần làm tăng đáng kể tính tàng hình
của tàu. Tàu hộ vệ tên lửa Gepard 3,9 của Việt Nam được cho là có khả năng "tàng hình nhẹ".
Hình dáng của tàu là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến RCS. Các bề mặt phản xạ radar chủ yếu là các “bộ phản xạ góc”. Đó là
các nhị diện tạo thành từ hai mặt phẳng và tam diện (hợp thành từ ba
mặt phẳng). Cả hai dạng hình học này đều phản xạ mạnh năng lượng radar
trở lại máy thu. Do đó, trong thiết kế tàu cần phải hạn chế đến mức thấp
nhất việc tạo ra các góc này.
Các phương tiện mang trên không, trên bộ cũng như trên biển đều phát
nhiệt trong vùng phổ hồng ngoại và có thể bị các sensor của đối phương
phát hiện.
Với tàu mặt nước, phát xạ hồng ngoại được chia thành tiết diện hồng
ngoại (IRCS) là tổng năng lượng nhiệt được phát ra, và dấu hiệu hồng
ngoại (IRS). Để tránh bị nhận dạng ảnh, vấn đề cơ bản trong thiết kế tàu
là cần làm giảm cả tiết diện hồng ngoại và làm mờ dấu hiệu hồng ngoại
của tàu.
Phần lớn các kỹ thuật làm giảm IRCS đều hướng vào việc giảm sự bức xạ từ
các vật thể nóng trên tàu (nhiệt từ khí thải động cơ diesel hoặc luồng
phụt của động cơ tua bin khí...). Theo đó, các cửa dẫn khí thải nhiệt độ
cao phải được bố trí một cách hợp lý. Một số cửa xả có thể được bố trí
kèm theo các màn chắn nhiệt ở phía trước; hoặc có thể thổi hơi phía bên
trong để tản nhiệt ra xung quanh…
Âm thanh và tàng hình từ
Tàu mặt nước là phương tiện luôn tạo ra tiếng ồn âm thanh khi
di chuyển. Âm thanh có thể lan truyền dưới nước nên tàu ngầm, ngư lôi
hoặc thậm chí cả sonar cũng có thể phát hiện được sự có mặt của tàu.
Thông thường, các hệ thống đẩy của tàu là bộ phận gây ra tiếng ồn lớn
nhất vì khi cánh chân vịt quay, chúng sẽ tạo ra vùng trống về không
gian. Các bọt khí sẽ hình thành trong vùng áp suất thấp phía sau cánh
chân vịt. Và khi bọt khí vỡ sẽ giải phóng năng lượng tạo âm thanh.
Một phương pháp hiệu quả làm giảm âm thanh trong trường hợp này là phun
dòng khí có áp suất thấp vào vùng trống tạo ra phía sau cánh chân vịt.
Tác dụng của dòng khí này sẽ làm giảm sự chênh lệch áp suất giữa bọt khí
và nước bao quanh khiến bọt khí bị vỡ chậm và êm hơn. Tàu hộ vệ "tàng hình" Visby của Thụy Điển.
Tàu Visby của Thụy Điển tránh sự tan vỡ của bọt khí
bằng cách dùng động cơ phụt nước thay cho các thiết bị đẩy kiểu chân
vịt. Ngoài ra, sử dụng động cơ điện và vật liệu cách âm cũng giúp làm
giảm lượng âm thanh phát ra...
Một nguy cơ khác khiến tàu mặt nước có thể bị phát hiện bởi đối phương
đến từ những “biến dạng” do tàu tạo ra trong từ trường của trái đất. Tàu
mặt nước là vật thể lớn bằng kim loại có khả năng thu hút từ trường của
trái đất. Kết quả là hình thành sự biến dạng cục bộ đủ mạnh để kích
hoạt thuỷ lôi nằm sâu dưới đáy biển.
Trên thực tế, các nhà công nghệ có thể giúp tàu trở nên “tàng hình” về
từ bằng cách giảm sự biến dạng này tới mức thuỷ lôi từ không thể phát
hiện được. Giải pháp thực hiện là từ hoá thân tàu theo hướng đối nghịch
với từ trường trái đất.
Tuy nhiên, cách tốt nhất để hạn chế nguy cơ bị phát hiện bởi thuỷ lôi từ
đối với các tàu mặt nước là sử dụng những vật liệu không nhiễm từ để
đóng tàu. |