|
Những kẻ hạ bệ 'vua chiến trường' (kỳ 1) |
|
|
Một kiến thức hóa học từ thế kỷ 19 bị bỏ quên đã đánh thức tiềm năng mạnh mẽ của súng chống tăng phản lực, mở màn cho sự phát triển như vũ bão của vũ khí chống tăng thế giới. |
|
Ngôi vua chiến trường mà lực lượng
tăng – thiết giáp chiếm giữ từ thế chiến 1 bắt đầu lung lay vào cuối thế
chiến 2, thời điểm được cho là “bình minh” của các loại vũ khí chống
tăng hiện đại.
Kỳ 1: Vừa là súng, vừa là pháo
Uy lực đến từ phát minh “vô dụng”
Kể từ khi xuất hiện tới trước khi chiến tranh thế giới thứ 2
kết thúc, đường hướng phát triển của xe tăng rất rõ ràng: động cơ và hỏa
lực ngày càng mạnh và đặc biệt, vỏ giáp xe tăng ngày càng dày. Trong
khi đó, xu hướng phát triển của vũ khí chống tăng lại bế tắc, chủ yếu là
mìn, lựu đạn, chai cháy, súng trường, súng phun lửa… có hiệu quả thấp
và độ rủi ro cao, do binh sĩ phải áp sát xe tăng đối phương.
Các nhà sáng chế vũ khí chống tăng đã phải trải qua một giai đoạn mất
phương hướng cho tới khi kỹ sư hóa chất người Thụy Sĩ, ông Henry Mohaupt
ứng dụng hiệu ứng nổ lõm (còn gọi theo tên tác giả là Hiệu ứng Monroe)
vào vũ khí chống tăng. Nguyên lý của hiệu ứng này là một khối thuốc nổ
bố trí theo hình phễu, khi phát nổ sẽ tạo ra luồng nhiệt xuyên thủng lớp
thép dày. Điều đáng nói, dù được công bố từ thế kỷ
19, một thời gian dài hiệu ứng Monroe bị xếp vào loại kiến thức vô dụng
vì ban đầu chỉ được ứng dụng để khắc chữ trên thép, một công việc đã có
nhiều cách thực hiện hiệu quả hơn.
Được hiệu ứng Monroe “thổi hồn”, hàng loạt vũ khí chống tăng như Bazooka (Mỹ), PIAT (Anh), Panzerfaust (Đức)… ra đời.
Các vũ khí này, tuy có một số dị biệt trong thiết kế và nguyên lý, nhưng
tựu chung lại đều được tạo ra phản lực nhằm phóng quả đạn mang khối
thuốc nổ lõm tới mục tiêu.
Khi đạn chạm nổ, sẽ tạo ra luồng nhiệt có tốc độ, áp suất và nhiệt độ
cực cao xuyên thủng vỏ giáp, dù nó có thể dày tới 200-300mm, giới hạn mà
các thiết kế xe tăng khó vượt qua. Trong khi đó, người lính không phải
tiếp cận “cỗ máy chết chóc” quá gần như trước.
Không chỉ hạ bệ uy thế của xe tăng trên chiến trường, vũ khí mới còn làm
khái niệm súng – pháo trở nên lẫn lộn. Trước đây, giới quân sự thường
coi những hỏa khí có cỡ nòng dưới 20-23mm, có thể mang bởi một cá nhân
là súng, còn cỡ nòng lớn hơn và phải do nhiều người mang vác là pháo.
Tuy nhiên, vũ khí chống tăng mới có uy lực mạnh như pháo, nhưng lại có
thể vác bởi một người lính, chưa kể, cỡ nòng nhỏ nhất của loại vũ khí
này đã là 40mm.
|
"Nụ cười thành cổ" của chiến sĩ Lê Công Chinh bên khẩu B-40.
|
Nỗi kinh hoàng mang tên “A-pi-gi”
Không phải là nước đi đầu sáng chế súng chống tăng phản lực,
đồng thời, chịu nhiều tổn thất bởi súng chống tăng Đức trong thế chiến,
nhưng Liên Xô chính là nước hoàn thiện và chế tạo vũ khí chống tăng cá
nhân hoàn hảo nhất. Dựa vào mẫu Panzerfaust thu được của Đức, Liên Xô đã
chế tạo RPG-2 với tầm bắn xa hơn nhờ thay liều phóng làm từ thuốc nổ
đen của quả đạn bằng động cơ nhiên liệu rắn.
Trên chiến trường Việt Nam thời chống Mỹ, RPG-2 được biết đến với tên
gọi B-40, lừng lẫy với chiến thuật “bắm lấy thắt lưng địch mà đánh”, rất
phù hợp với khoảng cách tối ưu sử dụng súng. Cách biên chế loại vũ khí
này của bộ đội giải phóng (một nhóm 3 người được trang bị 1 khẩu B-40),
tạo ra hỏa lực chống tăng dày đặc khi tác chiến cấp tiểu đoàn, gây nên
nỗi kinh hoàng với xe tăng Mỹ.
Ở Việt Nam, B-40 không chỉ dùng để bắn cháy xe tăng mà còn hạ đồn bốt,
khiến quân đội Mỹ tìm cách ngăn quả đạn lao vào mục tiêu bằng lưới thép.
Do đó, loại lưới này thường được gọi là lưới B-40, dù trên thực tế,
kích thước mắt lưới là 60mm và sợi thép có đường kính 3mm.
Tiếp tục cải tiến RPG-2 về thân súng và đạn, Liên Xô cho ra đời súng
chống tăng RPG-7 (Việt Nam gọi là súng B-41), khắc phục được hầu hết các
nhược điểm của vũ khí chống tăng ra đời vào cuối thế chiến 2. RPG-7 có
thể phóng nhiều loại đạn nhắm vào nhiều đối tượng mục tiêu khác nhau.
Đặc biệt, quả đạn của RPG-7 có 2 động cơ, một để đưa đạn ra khỏi nòng,
một để tăng tốc bay tới mục tiêu, giúp người bắn không phải hứng luồng
lửa phóng ra từ đuôi đạn. Không chỉ vậy, đạn của RPG-7 tự hủy sau một
thời gian định trước (khoảng 5 giây sau khi phóng), nhằm phá các vật cản
như “lưới B-40” hoặc “lồng gà” bảo vệ xe tăng.
Nhờ những ưu điểm này, RPG-7 trở thành loại súng chống tăng phổ biến
nhất thế giới. Sau chiến tranh Việt Nam, RPG-7 xuất hiện ở Afghanistan,
Chechnya, Somali, Iraq… Ở một số nơi, RPG-7 được “cải tiến” bằng cách
lắp thêm một ống dẫn phía sau đuôi, cho phép chỉnh luồng nhiệt phụt ra
hướng khác khi nòng súng giơ lên trời nhắm vào các mục tiêu trên không.
Trong cuộc xung đột ở Somalia (năm 1993), RPG-7 được quân du kích sử
dụng để bắn hạ 2 trực thăng Black Hawk của Mỹ. Trước đó, các phi công
lái trực thăng chỉ kịp la lên “A-pi-gi, a-pi-gi…” (RPG). Gần đây, có
nguồn tin khẳng định phiến quân Taliban đã dùng RPG-7 bắn hạ trực thăng
hiện đại MH-47E trong một nhiệm vụ chở lính Đội 6, đặc nhiệm SEAL lừng
danh của Mỹ ở Afghanistan.
|
Cố vấn quân sự Mỹ hướng dẫn học viên lực lượng cảnh sát quốc gia Afghanistan sử dụng súng RPG-7.
|
Tuy rất thành công với hơn 9 triệu khẩu được chế tạo nhưng RPG-7 vẫn tồn
tại những nhược điểm. Mỗi lần phát hỏa, RPG-7 tạo âm thanh và áp lực
lớn lớn có thể làm chảy máu tai người sử dụng. Thêm nữa, luồng lửa dài
tới 30m phụt ra phía đuôi súng sau mỗi phát bắn ẩn chứa nhiều rủi ro.
Cuộc chiến Iraq ghi nhận trường hợp binh sĩ thiệt mạng bởi đã đứng phía
sau RPG-7 khi súng phát hỏa. Cảnh người lính bị luồng lửa thổi bay được
ghi lại và phát tán trên internet như lời cảnh báo cho những người lính
bất cẩn. Trong các khóa huấn luyện, dù ngắn hay dài hạn, các chuyên gia
quân sự cũng không quên nhắc học viên phải cẩn thận, vì người cầm súng
có thể mất ngón tay như chơi nếu sơ sểnh khi lên cò RPG-7.
Hơn cả, sự ra đời của giáp phức hợp với nhiều phiến làm từ các vật liệu
khác nhau đã phần nào hạn chế được luồng xuyên của đạn nổ lõm, hạ thấp
vai trò của RPG-7 trong chiến đấu. Nhưng dù sao, RPG-7 vẫn được coi là
thứ vũ khí hiệu quả, biểu hiện sinh động của tác chiến phi đối xứng.
Những cỗ máy chiến tranh trị giá hàng triệu USD như trực thăng MH-47E
trên chiến trường Afghanistan hay xe tăng Merkava ở Trung Đông hoàn toàn
có thể hạ gục bởi một nhóm tác chiến sử dụng RPG-7, với giá thành tổng
cộng cả đạn và súng chỉ khoảng 3.000 USD.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến 9
năm, bộ đội Việt Minh chống xe tăng Pháp bằng bom ba càng, vốn là vũ
khí của quân đội Nhật (vẫn được ghi là Japanese lunge mine). Đây cũng là
vũ khí chống tăng dựa trên hiệu ứng nổ lõm nhưng việc kích nổ do người
lính tạo lực đẩy. Do cách đánh chứa đựng nhiều rủi ro, mỗi chiến sĩ đánh
bom ba càng là một cảm tử quân, thể hiện tinh thần “quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh”. Không để chiến sĩ tiếp tục đối mặt với nguy hiểm,
ngành quân giới Việt Nam đã sớm chế tạo súng chống tăng bazooka của
riêng mình, lập công đầu diệt 2 xe tăng địch trong trận Sơn Lộ (Quốc
Oai, Hà Nội) đầu tháng 3/1947.
|
Ảnh phụ chú:
|
Súng chống tăng Bazooka của Mỹ trong Thế chiến thứ hai.
|
|
Đoạt được một số mẫu Bazooka trên chiến
trường Bắc Phi, người Đức đã chế tạo ra súng chống tăng Panzerschreck.
Do không giải quyết được bài toán động cơ của quả đạn, mỗi
khẩu Panzerschreck đều trang bị một tấm khiên bảo vệ người bắn khỏi
luồng lửa phản lực.
|
|
Người Anh cũng có thiết kế súng chống tăng riêng của
mình là súng PIAT, nạp đạn ở ngay đầu nòng, dùng lực đẩy cơ học điểm hỏa
cho viên đạn. |
|
Điểm hỏa theo nguyên lý cơ học, súng PIAT
không giải quyết được bài toán cân bằng phản lực nên đây không phải là
súng chống giật, bù lại, mỗi lần bắn, PIAT không tạo ra luồng lửa phía
sau súng. Trong ảnh, người lính Anh này đang lên đạn có súng PIAT
|
|
Ảnh hướng dẫn một người lính Đức sử dụng
súng chống tăng Panzerfaust, tiền thân của RPG-2 (B-40), do sử dụng
thuốc nổ đen để tạo lực đẩy nên tầm bắn của súng thấp (chỉ khoảng 30m),
súng tạo nhiều khói, làm lộ vị trí điểm hỏa ở mỗi lần bắn. Khác với
Bazooka và Panzerschreck nạp đạn từ phía sau (hạn chế cỡ
đạn), Panzerfaust (sau này là dòng RPG) nạp đạn từ phía trước, cỡ đạn
rất đa dạng.
|
|
Chiến sĩ cảm tử quân cầm bom ba càng
nghênh địch trong cuộc chiến đấu giữa Thủ đô Hà Nội (1946-1947). Tuy gọi
là bom nhưng vũ khí này được giới quân sự xếp vào loại mìn chống tăng
cơ động (lunge mine).
|
|
|
|
Các loại đạn trang bị cho RPG-7. | |
|
|
|
|
|
|