James Watt cha đẻ của máy hơi nước
Trong thời kỳ từ thập niên sáu mươi của thế kỷ XVIII, có một phát minh mà sự thành công của nó đã giúp cho con người thoát khỏi sự hạn chế về kỹ thuật phục vụ cuộc sống. Đó là phát minh của nhà bác học James Watt, ông tổ của máy hơi nước.
James Watt sinh ngày 19 tháng 1 năm 1736 tại một thị trấn ven biển Greenock ở Scotland của nước Anh. Ông nội là Thomas Watt, giáo sư dạy trắc lượng học và hàng hải học. Do sinh truởng trong một gia đình có học thức nên ngay từ nhỏ cậu bé James Watt đã được dạy dỗ kỹ càng. 

James Watt thường được mọi nguời gọi là nhà phát minh ra máy hơi nước. Ông là một trong những nhân vật then chốt của cuộc cách mạng công nghiệp. Thật ra, Watt không phải là người chế tạo ra máy hơi nước đầu tiên. Năm 1698, Thomas Savory đã được trao bằng sáng chế máy bơm nước chạy bằng hơi nước. Năm 1712, Thomas Newcomen cũng đã được trao bằng sáng chế cải tiến máy hơi nước. Năm 1761, khi tiến hành sửa chữa một máy hơi nước kiểu Newcomen, Jame Watt đã cải tạo máy hơi nước kiểu này và tạo ra một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đến nỗi mọi người phải công nhận ông là người đầu tiên phát minh ra máy hơi nước. 

Năm 1763-1764, tại Trường Đại học Glassgow, Watt bắt đầu đặc biệt chú ý tới máy hơi nước. Watt xác định việc nghiên cứu nguyên lý và kết cấu của máy hơi nước là phương hướng chủ yếu của mình. 

Năm 1769, Watt đã được nhận bằng độc quyền về cải tiến máy hơi nước, một thành qủa rất vĩ đại. Watt đã cải tiến máy hơi nước một bộ phận có thể phân ly để làm lạnh và cách ly xy-lanh của nó. Năm 1782, ông đã phát minh ra máy hơi nước kiểu song động. Sau khi kết hợp các phát minh đó lại, ông đã làm cho hiệu suất của máy hơi nước nâng lên gấp ba lần. 

Tháng 6 năm 1775, giữa Boulton và Watt đã ký kết một hợp đồng có giá trị 25 năm, thành lập công ty Boulton-Watt chuyên sản xuất và tiêu thụ loại máy hơi nước mới. Đây chính là tiền đề để cho Watt sáng tạo ra những cỗ máy hơi nước ngày càng tân tiến hơn. Trong hai mươi lăm năm sau đó, công ty của Watt và Boulton đã  sản xuất một số lượng lớn máy hơi nước cung cấp cho thị trường. 

Năm 1781, Watt còn phát minh ra một bộ phận bánh xe răng để giúp máy hơi nước chuyển động xoay tròn làm cho máy hơi nước mở rộng phạm vi sử dụng. Ông còn phát minh ra bộ phận ly tâm điều chỉnh tốc độ, thông qua đó máy hơi nước có thể tự động khống chế. Năm 1790, ông đã phát minh ra đồng hồ áp lực, đồng hồ chỉ thị, van tiết lưu và nhiều cải tiến có giá trị khác. 

Năm 1782, cỗ máy hơi nước chuyển động song hướng do Watt nghiên cứu và chế tạo ra đời và được cấp bằng sáng chế độc quyền. Năm 1784, loại máy hơi nước nằm cũng được xác nhận quyền sáng chế. Máy hơi nước ngày càng có tính thực dụng và được dùng rộng rãi được gọi là “máy hơi nước vạn năng”. 

Bốn năm sau, Watt phát minh ra bộ phận ly tâm điều chỉnh tốc độ và bộ phận điều tiết hơi. Năm 1790, Watt chế tạo thành công bộ phận biểu thị công năng của xy-lanh đầu tiên. Lúc này thì Watt đã hoàn thành toàn bộ quá trình phát minh ra máy hơi nước của mình. Đây là một bước đại nhảy vọt trong kỹ thuật sản xuất của loài người. Đây có thể được gọi là bản tuyên ngôn của nhân loại đã bắt đầu tiến vào “Thời đại máy hơi nước”. 

 Từ khi máy hơi nước xuất hiện đã có một tác dụng to lớn trong cuộc cách mạng công nghiệp. Trước khi có máy hơi nước, mặc dù một số địa phương nào đó đã biết sử dụng sức gió và sức nước nhưng động lực chủ yếu vẫn là sức lực của con người. Từ khi có máy hơi nước thì loài người đã thoát ra khỏi sự hạn chế đó. 

Ngoài việc dùng làm nguồn năng lượng cho các công xưởng, máy hơi nước còn được ứng dụng trong giao thông vận tải. Sự ứng dụng rộng rãi máy hơi nước đã ảnh hưởng đến cuộc cách mạng phương tiện giao thông của nước Anh. Năm 1814, công trình sư người Anh George Stephenson chế tạo thành công xe lửa chạy bằng máy hơi nước. Stephenson đã được suy tôn là “Cha đẻ của đầu máy xe lửa”. 

Sự cải tiến giao thông đường thuỷ là đóng những chiếc tàu có thể lắp được máy hơi nước làm động lực. Ngày 19 tháng 8 năm 1807, một nhà phát minh người Mỹ là Fulton đã thiết kế một chiếc tàu chở khách chạy bằng máy hơi nước chạy thử thành công trên sông Hudson, đồng thời đã mở ra những chuyến chạy định kỳ từ New York đến An-ba-ni. 

Cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra gần như cùng một lúc với cuộc cách mạng ở Mỹ và ở Pháp. Ngày nay, chúng ta có thể thấy được tác động to lớn của cuộc cách mạng công nghiệp đối với đời sống thường ngày của nhân loại. Do vậy, James Watt chính là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lịch sử loài người. 

James Watt là một nhà bác học vĩ đại. Mọi người đều xem ông là một “Anh hùng dân tộc” và hết sức kính phục ông. Ông là thành viên của “Hội Mặt trăng”, còn được gọi là “Học hội Thái âm”. Năm 1785, ông được bầu làm hội viên của Học viện Hoàng gia Luân-đôn. Năm 1806, Trường Đại  học Glasgow đã cấp cho ông bằng Tiến sĩ luật danh dự. Năm 1814, Viện Khoa học Pháp đã công nhận ông là Viện sĩ người nước ngoài của Viện. 

Ngày 25 tháng 8 năm 1819, Watt từ trần tại biệt thự riêng của ông ở Heathfield, thọ 85 tuổi. Thi hài ông được an táng tại nhà thờ Handsworth. Chính phủ Hoàng gia Anh đã coi ông như một vị công thần và đã cho dựng tượng tại nhà thờ Westminster. 

Để ghi nhớ công ơn to lớn của ông đối với loài người, tên ông đã được đặt cho một đơn vị đo lường. Đây chính là một tượng đài vĩ đại không bao giờ thay đổi của nhân loại để ghi nhớ công lao của một vĩ nhân đã góp phần thúc đẩy phát triển tiến trình hiện đại hoá  lịch sử phát triển xã hội. 

(Nguồn: wikipedia )